Page 266 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 266
+
+ Phù nội bào: xảy ra khi mất nhiều Na , ứ nước ở ngoại bào, thiếu
oxy, rối loạn chuyển hóa... dẫn đến nhược trương ngoại bào, nước vào trong
tế bào. Gặp trong suy thượng thận, bệnh addison, trường hợp mất nhiều điện
giải nhưng chỉ bù nước nhược trương, trường hợp tăng lượng nước nội sinh
do tăng chuyển hóa (sốt)...
Trên thực tế, phù gặp trong lâm sàng thường có vài cơ chế kết hợp. Ví
dụ: Phù gan: do giảm áp lực keo, tăng áp lực tĩnh mạch cửa, giảm hủy
hormon, tăng tính thấm thành mạch. Phù tim: ngoài tăng áp lực thủy tĩnh còn
cơ chế tiết aldosteron, giảm bài tiết thận, tăng tính thấm thành mạch. Phù
viêm: tăng áp lực thủy tĩnh, tăng tính thấm mạch, tăng áp lực thẩm thấu. Phù
phổi: tăng áp lực thủy tĩnh, tăng tính thấm mạch.
1.6.2. Rối loạn cân bằng điện giải
Rối loạn cân bằng điện giải sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ
quan trong cơ thể. Quan trọng nhất là rối loạn cân bằng nồng độ natri, kali và
canxi.
1.6.2.1. Rối loạn cân bằng natri máu
Natri có mặt chủ yếu ở khu vực ngoài tế bào, tham gia duy trì áp lực
thẩm thấu và hệ đệm.
- Giảm natri máu: gây hiện tượng nước vào tế bào, giảm thể tích máu
dẫn đến giảm huyết áp, trụy mạch, thiểu niệu, suy thận. Giảm natri máu
thường do mất natri qua đường tiêu hóa (nôn, hút dịch trong tắc ruột, tiêu
chảy cấp), qua nước tiểu (viêm thận mãn, bệnh addison), qua mồ hôi.
- Tăng natri máu: ít gặp hơn, thường xảy ra do bệnh nội tiết như ưu
năng thượng thận (bệnh cushing), dùng nhiều ACTH, cortison, tăng
aldosteron sau suy tim, suy gan, suy thận... Khi tăng natri máu dẫn đến giữ
nước gây phù, tăng huyết áp, thiếu máu, giảm protein máu...
1.6.2.2. Rối loạn cân bằng kali máu: Kali chủ yếu trong tế bào, nhưng ngoài
tế bào cũng có vai trò quan trọng duy trì tính chịu kích thích của sợi cơ, nhất
là cơ tim.
266