Page 261 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 261
mao mạch là 40mmHg, rồi giảm xuống 28mmHg, đến cuối mao mạch chỉ còn
16mmHg. Áp lực keo của máu (do protein máu quyết định) là 28mmHg
không thay đổi trong toàn bộ hệ mạch máu. Do chênh lệch giữa áp lực thủy
tĩnh và áp lực keo, nước được đẩy từ máu ra gian bào ở phía đầu mao mạch,
đồng thời được nhận lại từ gian bào về máu ở phía cuối mao mạch với lượng
tương đương. Ngoài ra, có một phần rất nhỏ (3 - 4% tức là khoảng 2 lít)
không trở về mao mạch ngay mà vào đường bạch mạch về tuần hoàn chung.
Khi bị viêm hoặc dị ứng, thành mạch bị tăng tính thấm thì protein thoát
ra ngoài, làm cân bằng trên bị phá vỡ (áp lực thủy tĩnh thắng áp lực keo) gây
tích nước ở gian bào.
Gian bào Bạch mạch
pH > pK pH = pK pH < pK
Lòng mạch 40>28 28=28 16<28
Hình 2.1. Sơ đồ trao đổi nước ở mao mạch
( pH là áp lực thủy tĩnh trong lòng mạch; pK là áp lực keo huyết tương)
1.4.2. Trao đổi nước và điện giải giữa gian bào và tế bào
Gian bào là khu vực đệm giữa lòng mạch và tế bào. Màng tế bào ngăn
cách hai khu vực này. Màng tế bào chỉ cho nước qua lại tự do, không cho các
ion tự do khuếch tán qua lại, vì vậy thành phần các chất điện giải giữa hai khu
+
vực này khác hẳn nhau, ví dụ như nồng độ ion Na ở gian bào rất cao so với
+
trong tế bào, còn nồng độ ion K ở trong tế lại cao hơn hẳn so với gian bào.
Song tổng điện tích các ion trong và ngoài tế bào bằng nhau, nên áp lực thẩm
thấu ngang nhau. Nếu xảy ra sự chênh lệch áp lực thẩm thấu thì nước sẽ được
trao đổi để điều chỉnh lại. Chẳng hạn nếu gian bào bị tích Na , làm áp lực
+
+
-
thẩm thấu gian bào tăng lên. Do Na và Cl không vào được tế bào, nên nước
261