Page 264 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 264
Trong tiêu chảy cấp, mất nước với số lượng lớn (có thể tới 40 lít/ngày
trong bệnh tả), dẫn đến giảm khối lượng tuần hoàn, gây trụy mạch, hạ huyết
áp, giảm bài tiết nước tiểu. Ngoài ra, mất nước còn làm cho máu bị cô đặc,
giảm tốc độ tuần hoàn, cơ thể thiếu oxy gây rối loạn chuyển hóa tạo acid.
Kết hợp với mất kiềm trong dịch tiêu hóa, bệnh nhân càng lâm vào tình trạng
nhiễm toan. Mất nước - mất muối kiềm - nhiễm độc là ba biểu hiện chính của
tiêu chảy, tạo thành vòng xoắn bệnh lý.
Vì vậy, đối với bệnh nhân tiêu chảy cấp cần bù nước, điện giải kịp thời
để cắt vòng xoắn bệnh lý. Ngoài ra cần điều chỉnh cân bằng acid - base cho
bệnh nhân.
- Mất nước do sốt: Chủ yếu theo đường hô hấp do tăng thông khí để
thải nhiệt và đáp ứng nhu cầu oxy. Ngoài ra mất nước do ra mồ hôi.
- Mất nước do mồ hôi: Thường xảy ra vào mùa nóng hoặc khi lao động
ở nơi có nhiệt độ và độ ẩm cao (lao động trong hầm lò). Khi ra nhiều mồ hôi
thì mất nước nhiều hơn điện giải (mất nước ưu trương). Lúc đầu mất nước là
chủ yếu, cho nên làm tăng áp lực thẩm thấu dịch gian bào gây cảm giác khát,
về sau, còn kèm theo mất điện giải
- Mất nước do nôn: Đối với các trường hợp nôn do tắc cao (bệnh dạ
dày: tắc môn vị, hẹp môn vị, hoặc do thai nghén), ngoài mất nước bệnh nhân
kèm theo mất acid HCl (trong dịch vị). Lúc đầu cơ thể bị nhiễm kiềm, nhưng
sau đó bệnh nhân mất nước nhiều gây rối loạn chuyển hóa tích nhiều sản
phẩm acid chuyển thành nhiễm toan (hay gặp do nôn nhiều ở trẻ nhỏ và phụ
nữ có thai). Nôn do tắc thấp (tắc ruột) thì mất nước kèm với mất dịch kiềm,
dẫn tới nhiễm toan.
- Mất nước do thận: gặp trong đái nhạt, việc bù khối lượng nước và
điện giải tương đối dễ dàng.
1.6.1.2. Tích nước
Tích nước là hiện tượng nước bị giữ lại trong cơ thể, thường gặp nhất
trong lâm sàng là phù, thũng. Phù là hiện tượng tích nước ở gian bào. Thũng
là tích nước ở các khoang tự nhiên.
264