Page 269 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 269
Muối của hệ đệm (mẫu số) tham gia trung hòa các acid khi cơ thể bị
nhiễm acid. Acid lactic là loại được tạo ra nhiều trong chuyển hóa, được muối
kiềm của hệ đệm (NaHCO 3) kết hợp tạo ra muối lactat Na và H 2CO 3. Acid
carbonic yếu hơn nhiều so với acid lactic, dễ phân ly thành nước và khí
carbonic.
2.2.2. Vai trò của hô hấp
Chức năng chính của bộ máy hô hấp (phổi) là trao đổi khí: lấy oxy từ
môi trường bên ngoài cung cấp cho các tế bào và đào thải khí CO 2 ra môi
trường. Hemoglobin trong hồng cầu làm nhiệm vụ vận chuyển O 2 và CO 2.
Lượng CO 2 do tế bào sản sinh ra hàng ngày tới 800 - 900g, cùng với lượng
CO 2 do hệ thống đệm tạo ra sẽ được hệ đệm hemoglobin (Hb) của hồng cầu
mang đến phổi thải đi. Khi nồng độ CO 2 tăng cao trong máu sẽ kích thích
trung tâm hô hấp gây tăng thông khí, đào thải CO 2 cho đến khi tỷ lệ
H 2CO 3/NaHCO 3 trở về 1/20. Ngược lại khi pH có xu hướng tăng lên, trung
tâm hô hấp bị ức chế, nhịp thở chậm lại và CO 2 được tích lại để tạo H 2CO 3 (CO 2
+ H 2O H 2CO 3) cho đến khi tỷ lệ của hệ đệm trên tăng đến 1/20.
2.2.3. Vai trò của thận
Đây là cơ quan điều hòa pH chậm nhưng triệt để nhất. Thận tham gia
điều hòa pH máu bằng cách đào thải acid và phục hồi lại dự trữ kiềm nhờ các đặc
điểm của tế bào ống thận:
- Tế bào ống thận có nhiều enzym carboanhydrase (CA), cho nên dễ tạo
+
-
H 2CO 3 và phân li nó thành H và HCO 3
- Chứa nhiều glutaminase cho nên tạo được các nhóm NH 4 từ glutamin
+
+
để thay thế Na và K trong các muối kiềm của nước tiểu, tái tạo muối kiềm.
- Tế bào ống thận chịu được pH thấp cho nên đóng vai trò quan trọng
thải acid.
2.3. Rối loạn thăng bằng kiềm toan
2.3.1. Nhiễm toan
Là tình trạng các acid từ tế bào hoặc từ bên ngoài xâm nhập vào huyết
tương làm toan hoá máu, pH có xu hướng giảm (pH <7,35).
269