Page 267 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 267

- Giảm kali máu: bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi cơ, liệt chi, tắc ruột,

                     giảm huyết áp tâm trương, nhịp tim nhanh... Gặp trong nôn nhiều, tiêu chảy,

                     viêm thận mạn, dùng thuốc lợi tiểu quá mức...

                            - Tăng kali huyết: là trường hợp cấp cứu vì có nguy cơ gây ngừng tim.

                     Triệu chứng chủ yếu là thần kinh: lú lẫn, mệt mỏi, buồn chân tay, liệt mềm.

                     Quan trọng  nhất  là triệu  chứng về  tim:  tim  đập  chậm, nhỏ, rung  thất, trụy

                     mạch ngoại vi và ngừng tim. Tăng kali máu thường gặp trong thiểu năng thận,

                     tan hủy tế bào (tan máu), tổn thương mô, điều trị  kali quá liều...

                     1.6.2.3. Rối loạn cân bằng canxi máu

                            - Giảm canxi máu: gặp trong suy cận giáp, kém hấp thu canxi ở ruột,

                     thiếu vitamin D, nhiễm kiềm gây giảm quá trình chuyển canxi vào xương.


                     Nếu giảm canxi nhẹ và kéo dài gây còi xương, suy dinh dưỡng. Giảm canxi
                     nặng sẽ dẫn đến co giật tự phát, có thể gây ngừng hô hấp.


                            - Tăng canxi máu: gặp trong cường cận giáp, do canxi bị huy động từ
                     xương ra máu và đào thải ở thận, bệnh nhân dễ bị gẫy xương. Ngoài ra ngộ


                     độc vitamin D, nhiễm toan cũng dẫn đến rối loạn canxi máu.
                     2. Rối loạn thăng bằng kiềm toan


                     2.1. Ý nghĩa của pH máu

                            Bình thường pH máu là 7,35 ± 0,05 khá ổn định. Các phản ứng chuyển

                     hóa trong cơ thể thường xuyên xảy ra đòi hỏi môi trường có pH thích hợp.

                     Phần lớn các sản phẩm do chuyển hóa sinh ra có tính acid làm pH trong tế bào

                     giảm. Để pH luôn ở mức ổn định tế bào luôn sử dụng hệ thống đệm của mình

                     để trung hòa bớt các acid, đồng thời thải một số acid (acid carbonic, lactic,

                     xetonic) ra huyết tương.

                            Huyết tương phải nhận các acid của tế bào thải ra, các acid và kiềm từ

                     thức ăn, trao đổi acid và kiềm với dịch tiêu hóa, vì vậy pH huyết tương dễ bị

                     biến động. Nếu huyết tương tích nhiều sản phẩm acid sẽ cản trở sự đào thải

                     acid của tế bào. Do vậy, quá trình điều hòa pH của huyết tương liên tục xảy ra

                     để duy trì sự ổn định pH trong các tế bào và trong toàn cơ thể. Quá trình này






                                                                                                         267
   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271   272