Page 49 - Dược lý - Dược
P. 49

3.3.6. Tác dụng của thuốc không qua thụ thể

                         Ngoài những cơ chế đã nêu, thuốc còn tác dụng theo một số cơ chế khác. Một số

                  thuốc có tác dụng không phải do kết hợp với thụ thể, các thuốc này có tác dụng do tính chất

                  lý hóa,và thường không đặc hiệu.
                         Các thuốc antacid (natri bicarbonat, magnesi hydroxyd…) có tính kiềm nhẹ được

                  dùng trong viêm loét đường tiêu hoá. Các muối chứa các ion khó hấp thu qua màng sinh

                  học như MgSO4, khi uống sẽ "hút nước" ở thành ruột vào lòng ruột và giữ nước trong lòng

                  ruột nên có tác dụng tẩy; khi tiêm vào tĩnh mạch sẽ kéo nước từ gian bào vào máu nên được

                  dùng chữa phù não. Isosorbid, mannitol dùng liều tương đối cao, làm tăng áp lực thẩm thấu
                  trong huyết tương. Khi lọc qua cầu thận, các thuốc này không bị tái hấp thu ở ống thận, làm

                  tăng áp lực thẩm thấu trong ống thận, có tác dụng lợi niệu.

                         Những chất tạo chelat hay còn gọi là chất "càng cua" do có các nhóm có cực như -

                  OH, -SH, -NH2, dễ tạo phức với các ion hóa trị 2, đẩy chúng ra khỏi cơ thể. Các chất "càng

                  cua" như EDTA (ethyl diamin tetra acetic acid), BAL (British anti lewisit - dimercaprol),
                                                                                             2+
                                                                                                         2+
                                                                                                   2+
                  d- penicilamin thường được dùng để chữa ngộ độc kim loại nặng như Cu , Pb , Hg  hoặc
                             2+
                  thải trừ Ca  trong ngộ độc digital.
                         Than hoạt hấp phụ được các hơi, các độc tố nên dùng chữa đầy hơi, ngộ độc.

                  3.4. Các cách tác dụng của thuốc

                  3.4.1. Tác dụng chính và tác dụng phụ
                         Tác dụng chính là tác dụng dược lý của thuốc dùng để điều trị, còn tác dụng phụ là

                  tác dụng không mong muốn có trong điều trị nhưng vẫn xuất hiện khi dùng thuốc. Ví dụ

                  tác dụng hạ sốt, giảm đau, chống viêm là tác dụng chính của các thuốc nhóm này, còn tác

                  dụng gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa là tác dụng phụ của chúng. Đôi khi đối với tác

                  dụng của một thuốc trong trường hợp này là tác dụng phụ nhưng trường hợp khác lại là tác
                  dụng chính. Ví dụ tác dụng giãn đồng tử của atropin là tác dụng phụ khi dùng atropin với

                  mục đích chống co thắt cơ trơn (giảm đau trong các cơn đau do co thắt cơ trơn đường tiêu

                  hóa, tiết niệu…) nhưng tác dụng đó lại là tác dụng chính khi nhỏ mắt để soi đáy mắt.

                         Trong điều trị người ta thường tìm các bịên pháp để hạn chế những tác dụng phụ của

                  thuốc bằng cách chọn đường dùng thuốc thích hợp, thời điểm uống thuốc, dạng bào chế và
                  có thể kết hợp với thuốc khác một cách hợp lý. Ví dụ để hạn chế tai biến đường tiêu hóa do

                                                                                                              42
   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54