Page 44 - Dược lý - Dược
P. 44

• Các chất đối kháng không cạnh tranh gắn vào một vi trí gắn với ligand trên thụ thể

                  (vị trí dị lập thể). Việc gắn vào các vị trí dị lập thể này gây ra  sự thay đổi hình thể của thụ

                  thể, dẫn đến làm giảm hoặc không gắn với chất chủ vận, và, do đó, không truyền tín hiệu.

                  3.2.6.1. Đối kháng cạnh tranh (competive antagonism)
                         Chất đối kháng cạnh tranh liên kết với các thụ thể mà không bắt đầu một đáp ứng

                  phân tử. Tác dụng của chúng có được bằng cách không cho các chất chủ vận nội sinh đi

                  đến với các thụ thể. Ví dụ các chất phong toả  hoặc  adrenoceptor là các chất đối kháng

                  cạnh tranh với các chất kích thích  hoặc  adrenoceptor; các chất kháng histamin H1 hoặc

                  H2 là những chất đối kháng cạnh tranh với các chất kích thích receptor H1 hoặc H2 ...
                         Trong đối kháng cạnh tranh có loại cạnh tranh cân bằng và cạnh tranh không cân

                  bằng. Mối quan hệ giữa nồng độ và đáp ứng trong cạnh tranh không cân bằng và cạnh tranh

                  cân bằng có sự khác nhau về chất. Trong cạnh tranh không cân bằng khi tăng nồng độ chất

                  đối kháng, tác dụng tối đa của chất chủ vận sẽ giảm đi và không thể đạt được giá trị tối đa

                  như khi không có chất đối kháng; mặt khác nếu tăng nồng độ chất đối kháng đến mức độ
                  nào đó có thể chất chủ vận không gây được đáp ứng. Trong khi đó trong cạnh tranh cân

                  bằng nếu tăng nồng độ đến mức độ cần thiết chất chủ vận vẫn có thể đạt được giá trị tác

                  dụng tối đa như khi không có chất đối kháng.

                  3.2.6.2. Đối kháng không cạnh tranh (noncompetitive antagonism)
                         Đối kháng không cạnh tranh là trường hợp chất đối kháng làm giảm tác dụng của

                  chất chủ vận khi nó tương tác ngoài vị trí gắn của chất chủ vận với thụ thể. Kết quả chất

                  chủ vận bị giảm tác dụng có thể là do chất đối kháng làm thay đổi hình dạng của thụ thể

                  hoặc ảnh hưởng đến một trong những khâu sau tương tác của chất chủ vận với thụ thể. Ở
                  nồng độ cao chất đối kháng không cạnh tranh có thể làm mất tác dụng của chất chủ vận

                  ngay cả khi chất chủ vận đã “chiếm giữ” thụ thể. Ngược lại ở nồng độ cao chất chủ vận

                  không loại trừ được tác dụng của chất đối kháng không cạnh tranh. Ví dụ papaverin làm

                  giảm co thắt cơ trơn là chất đối kháng không cạnh tranh với acetylcholin.

                  3.2.6.3. Đối kháng chức năng (funtional antagonism)
                         Đối kháng chức năng là trường hợp hai chất chủ vận khác nhau tương tác trên hai

                  loại thụ thể khác nhau và gây nên tác dụng đối lập nhau. Trong đối kháng chức năng, ảnh

                  hưởng của hai loại thuốc là đối nghịch trên cấp độ hệ thống cơ quan hoặc toàn bộ cơ thể

                                                                                                              37
   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49