Page 43 - Dược lý - Dược
P. 43

thụ thể này, còn được gọi là thụ thể dự trữ (thụ thể thừa), làm tăng sự nhạy cảm đối với

                  những thay đổi nhỏ về nồng độ chất chủ vận.

                         Ví dụ, các khớp thần kinh cơ xương có 30 triệu thụ thể nicotinic acetylcholin. Chỉ

                  cần kích hoạt 40000 thụ thể này là cho ra một điện thế hoạt động kéo theo sự co giật hoàn
                  toàn các sợi cơ.

                  3.2.5.2. Chất chủ vận một phần (partial agonist)

                         Các chất chủ vận một phần gắn vào các thụ thể và cho một đáp ứng phân tử, nhưng
                  ngay cả ở nồng độ cao cũng không đạt được đáp ứng tối đa trên tế bào. Do đó, đáp ứng tối

                  đa ở mô của một chất chủ vận một phần là ít hơn so với một chất chủ vận hoàn toàn. Vì các

                  chất chủ vận một phần có thể cạnh tranh với các chất chủ vận hoàn toàn trong việc gắn với

                  các thụ thể, chúng có thể hoạt động như chất đối kháng đối với chất chủ vận hoàn toàn.

                         Chất chủ vận một phần có được từ một sự hoạt hóa thụ thể không đầy đủ của một
                  thuốc. Đáp ứng tiếp theo của tế bào phụ thuộc vào sự có mặt hay vắng mặt của các thụ thừa:

                         • Nếu không có các thụ thể thừa, đáp ứng tối đa của tế bào với một chất chủ vận một

                  phần ít hơn so với một chủ vận hoàn toàn, và các chất chủ vận một phần không đạt được

                  đáp ứng tối đa trên tế bào như là với chất chủ vận hoàn toàn.

                         • Nếu có thụ thể thừa (như trong hầu hết các tế bào), các chất chủ vận một phần cần
                  phải tương tác với nhiều thụ thể của toàn bộ thụ thể dự trữ để đạt được các đáp ứng tối đa

                  trong tế bào, do đó, cần dùng một liều cao hơn để có được đáp ứng này. Nếu liều lượng đủ

                  cao, các chất chủ vận một phần có thể đạt được các đáp ứng tối đa trong tế bào như với chất

                  chủ vận hoàn toàn.

                  3.2.6. Chất đối kháng (antagonist)
                         Các chất đối kháng là những chất có khả năng gắn với thụ thể nhưng không có hoạt

                  tính nội tại và làm giảm hoặc ngăn cản tác dụng của  chất chủ vận. Ví dụ propranolol là

                  thuốc chẹn giao cảm , đối kháng với catecholamin ở thụ thể - adrenergic.

                         Các chất đối kháng có thể được phân biệt về cấp độ. Đối kháng ở cấp độ phân tử có

                  nghĩa là tại mức độ tương tác ở cấp thụ thể phải được phân biệt với đối kháng chức năng.

                  Với các chất đối kháng ở cấp độ phân tử, hai cơ chế chính có thể được phân biệt:
                         • Chất đối kháng cạnh tranh gắn vào các vị trí thường có thụ thể chiếm giữ, do đó

                  làm giảm số lượng các thụ thể có sẵn cho việc gắn với chất chủ vận.

                                                                                                              36
   38   39   40   41   42   43   44   45   46   47   48