Page 100 - Dược lý - Dược
P. 100
+ Nhóm liệt thần: clorpromazin, droperidol...
+ Nhóm hủy phó giao cảm: atropin, scopolamin...
+ Nhóm mềm cơ: tricuran, sucxamethonium…
+ Nhóm kháng histamin: promethazin...
1.3.2.2. Gây mê cơ sở
Dùng thuốc gây mê tĩnh mạch có tác dụng mạnh và ngắn để gây cảm ứng mê nhanh
như: thiopental, hexobarbital. Dùng thuốc gây mê cơ sở sẽ giúp khởi mê nhanh, an dịu,
tránh các tai biến do phản xạ, làm mất giai đoạn kích thích.
1.4. Phân loại thuốc gây mê
Theo đường dùng, chia thuốc gây mê thành 2 loại:
- Thuốc gây mê đường hô hấp: ether, halothan, enfluran, nitrogen oxyd...
- Thuốc gây mê đường tĩnh mạch: thiopental, propofol, ketamin...
1.4.1. Thuốc gây mê đường hô hấp
1.4.1.1. Đặc điểm chung
- Tác dụng gây mê.
- Tác dụng trên các cơ quan khác:
+ Trên hô hấp: hầu hết thuốc gây mê hô hấp đều gây ức chế hô hấp.
+ Trên não: hầu hết các thuốc làm tăng áp lực sọ não.
+ Trên tim mạch: halothan gây ức chế tim, giãn mạch và hạ huyết áp. Tuy nhiên,
isofluran, methoxyfluran và enfluran có thể làm tăng nhịp tim.
+ Trên cơ: hầu hết các thuốc gây mê hô hấp đều có tác dụng giãn cơ.
+ Trên thận: tất cả các thuốc gây mê đều làm giảm tốc độ lọc cầu thận và lưu lượng
máu qua thận.
1.4.1.2. Các thời kỳ gây mê
Do thuốc mê thấm vào các trung tâm thần kinh theo thứ tự từ vỏ não xuống, dựa vào
dấu hiệu lâm sàng, Arthur Guedel (1920) đã phân chia thành 4 giai đoạn trong gây mê bằng
ether là: giai đoạn giảm đau, giai đoạn kích thích, giai đoạn phẫu thuật và giai đoạn ức chế
hành tủy (nhiễm độc).
Hiện nay các thuốc gây mê thường có tác dụng khởi mê nhanh hoặc được phối hợp
với các thuốc khởi mê nên hầu như không diễn ra các giai đoạn như trên nữa.
93