Page 92 - Giáo trình môn học Dược lâm sàng
P. 92
Ampicilin, tetracyclin, rifampicin, cefoperazol,
1 Mật
ceftriaxon, erythromycin, ...
Erythromycin, cloramphenicol, co-trimoxazol,
2 Tuyến tiền liệt
fluoroquinolon, cephaloporin thế hệ 3 ...
Lincomycin, clindamycin, rifampicin, fluoroquinolon,
3 Xương, khớp
cephaloporin thế hệ 1, 2, 3 ...
Thiamphenicol, spectinomycin, tobramycin,
4 Tiết niệu
ciprofloxacin...
Penicillin G, cloramphenicol, co-trimoxazol, rifampicin,
5 Dịch não tuỷ
cephaloporin thế hệ 3 ...
Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng đáp ứng tốt 2 yêu cầu trên.
Ví dụ: viêm màng não do Pseudomonas aeruginosa, các kháng sinh tác dụng tốt lên vi
khuẩn này là gentamicin, amikacin, colistin... lại không có khả năng thấm qua hàng rào
máu não do vậy phải phối hợp kháng sinh thấm tốt qua hàng rào máu não hoặc tiêm các
kháng sinh trên trực tiếp vào ống sống.
Các trường hợp nhiễm khuẩn tiêu hoá nặng có thể sử dụng kháng sinh đường uống
loại ít hấp thu qua ruột, đặc biệt với người già yếu, trẻ nhỏ có nguy cơ mất nước cao hoặc
người suy giảm miễn dịch. Nhược điểm của kháng sinh loại này là dễ gây loạn khuẩn ruột,
gây viêm ruột kết mạc giả (kháng sinh nhóm lincosamid) và không nên dùng kéo dài.
Trong trường hợp nhiễm khuẩn da, mô mềm, trước hết nên làm sạch vết thương (loại
bỏ tổ chức hoại tử, mổ dẫn lưu mủ…), sau đó dùng thuốc sát khuẩn và bôi kháng sinh tại
chỗ…
2.3. Lựa chọn kháng sinh phù hợp với cơ địa, sinh lý và bệnh lý mắc kèm ở người
bệnh
2.3.1. Cơ địa người bệnh
Kháng sinh là một trong những nhóm thuốc có nguy cơ gây dị ứng rất cao, do đó
trước khi kê đơn cần phải khai thác tiền sử dị ứng, tiền sử dùng thuốc ở người bệnh trước
khi kê đơn và phải luôn sẵn sàng các phương tiện chống sốc khi sử dụng kháng sinh.
Theo thống kê, tỉ lệ dị ứng khi dùng các kháng sinh có nguồn gốc tổng hợp và bán
tổng hợp thấp hơn các sản phẩm chiết xuất từ môi trường nuôi cấy vi sinh vật, lý do là đa
phần dị ứng liên quan đến độ tinh khiết của kháng sinh. Các nhóm kháng sinh có cấu trúc
hóa học tương tự nhau thì có khả năng cao gặp dị ứng chéo. Ví dụ tỷ lệ dị ứng chéo giữa
penicilin và cephalosporin từ 5 - 15%; do đó nếu đã gặp dị ứng với một kháng sinh nào đó