Page 23 - Giáo trình môn học nghiên cứu khoa học
P. 23
phải theo dõi chặt chẽ sự tác động qua lại giữa các yếu tố nguy cơ với vấn đề
sức khoẻ dự định sẽ có thể xuất hiện.
Một ví dụ kinh điển của nghiên cứu đoàn hệ là nghiên cứu các bác sĩ Anh quốc
(The British Doctor's study) được bắt đầu tiến hành vào năm 1951 trong đó
34.440 nam bác sĩ được hỏi về tình trạng hút thuốc lá (có hay không) và được
theo dõi về tử vong do ung thư phổi trong vòng 20 năm. Kết quả cho thấy nguy
cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ở người không hút thuốc lá là 10/100.000
trong khi nguy cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ở người hút thuốc lá là
140/100.000. Như vậy hút thuốc lá làm tăng nguy cơ ung thư phổi lên 14 lần
(nguy cơ tương đối là 14) và như vậy hút thuốc lá được gọi là yếu tố nguy cơ
của K phổi.
2.2. Nghiên cứu can thiệp
Nghiên cứu can thiệp hay còn gọi là nghiên cứu thực nghiệm là loại
nghiên cứu mà để kiểm định giả thuyết nhân quả, nhà nghiên cứu phải can thiệp
vào hiện tượng/đối tượng nghiên cứu hoặc tạo ra yếu tố được coi là nguyên
nhân để rồi theo dõi, ghi nhận kết quả và phân tích mối quan hệ giữa nhân và
quả sau can thiệp đó.
Nghiên cứu can thiệp là phương pháp nghiên cứu tốt nhất để xác định
mối quan hệ nhân quả hay hiệu quả của các can thiệp cộng đồng và thử nghiệm
lâm sàng. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu can thiệp là đặt con người trước
các yếu tố nguy cơ liên quan tới các khía cạnh đạo đức.
Đây là loại nghiên cứu có giá trị nhất trong số các nghiên cứu y học,
nhưng là loại nghiên cứu đòi hỏi thiết kế đúng đắn, tiến hành nghiên cứu kiên
trì, nghiêm túc theo đề cương, đò hỏi tốn kếm về thời
Nghiên cứu can thiệp là nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu tác động lên
tình hình và đo lường kết quả của việc tác động.
Thông thường có hai nhóm được so sánh, nhóm được can thiệp (ví dụ như được
điều trị với một loại thuốc) và nhóm không được can thiệp (nhóm sử dụng giả
dược) nhằm tìm kiếm một kết quả theo ý muốn hoặc đi theo một chiều hướng
23