Page 152 - Dược liệu
P. 152
mặt lá lúc non có nhiều lông, sau rụng dần.
Hoa to, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, đài hoa hình ống có 5 gân nổi lên rõ rệt. Khi hoa héo,
một phần còn lại trưởng thành với quả giống hình cái mâm. Tràng to, hình phễu có màu
trắng hoặc tím.
Quả hình cầu, mặt ngoài có gai, quả non màu xanh, khi già màu nâu, có nhiều
hạt hình trứng dẹt, cạnh có những vân nổi.
Căn cứ vào màu sắc của hoa và thân cây Hình 4.10. Cà độc dược
Datura metel
người ta chia ra nhiều dạng cà độc dược. Ở
nước ta hiện nay có ba dạng cây cà độc dược:
- Datura metel L. forma alba: Cây có hoa trắng, thân xanh, cành xanh.
- Datura metel L. forma violacea: Cây có hoa đốm tím, cành thân tím
Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam, Cambodia, Lào, Ấn Độ,
Malaysia, Trung Quốc... để làm cảnh và làm thuốc.
Bộ phận dùng
- Lá (Folium Daturae metelis) phơi hay sấy khô (hay dùng nhất).
- Hoa (Flos Daturae metelis) phơi hay sấy khô.
- Hạt (Semen Daturae metelis) phơi hay sấy khô.
Thu hái lá vào lúc cây sắp và đang ra hoa (tháng 5 - 6 đến hết tháng 9, 10). Hoa
hái vào các tháng 8, 9, 10.
Hạt lấy ở những quả chín ngả màu nâu.
Thành phần hoá học
Hầu hết các bộ phận của cây đều chứa alcaloid, H 3 C N
trong đó alcaloid chính là l - scopolamin (= hyoscin),
ngoài ra còn có hyoscyamin, atropin, norhyoscyamin O
(Bảng 1.4). Hàm lượng alcaloid toàn phần ở lá 0,10 - H
0,60%, rễ: 0,10 - 0,20%, hạt: 0,20 - 0,50%, quả: 0,12%,
hoa: 0,25 - 0,60%. O
Hàm lượng alcaloid thay đổi tuỳ theo thời kỳ sinh C = O
trưởng của cây và cách trồng trọt chăm sóc, thường cao C H
nhất vào lúc cây ra hoa. Khi quả chín các alcaloid di CH 2 OH
chuyển từ vỏ quả vào trong hạt. Việc bón phân đạm đã
làm tăng hàm lượng alcaloid toàn phần. Nếu tỉa bớt cành l - scopolamin
hoặc cắt ngọn lượng alcaloid sẽ giảm.
Bảng 4.1. Hàm lượng alcaloid của cây cà độc dược trồng tại Hà Nội
(Theo Viện Dược liệu)