Page 131 - Dược liệu
P. 131

hoặc FeCl 3).

                        - Với những alcaloid không thể tạo thành dung dịch có màu để định lượng trực
                  tiếp, người ta cho alcaloid tác dụng với thuốc thử tạo tủa có màu, sau đó tách riêng tủa
                  và hoà tan trong dung môi thích hợp sẽ được dung dịch có màu để định lượng. Ví dụ:
                  Có thể định lượng alcaloid vỏ canhkina bằng cách cho tác dụng với thuốc thử
                  Reinecke để tạo ra tủa màu, lấy riêng tủa Reineckat alcaloid hoà tan trong aceton tạo
                  ra dung dịch có màu để định lượng.

                        - Biến đổi alcaloid thành một dẫn chất có màu. Ví dụ biến đổi morphin thành
                  nitrosomorphin có màu đỏ đậm trong môi trường kiềm. Hoặc dùng phản ứng giáng
                  phân alcaloid thành những phần nhỏ, lấy riêng phần cần thiết rồi cho tác dụng với
                  thuốc thử tạo ra dung dịch có màu để định lượng. Ví dụ: physostigmin tác dụng với
                  kiềm tạo thành eserolin, carbonat kiềm và metylamin; có thể lấy riêng metylamin
                  bằng cách cất kéo hơi nước, sau cho tác dụng với thuốc thử ninhydrin tạo ra hợp chất
                  có màu. Định lượng phần metylamin, suy ra được lượng physostigmin.

                  1.8. Tác dụng và công dụng
                        Alcaloid nói chung là những chất có hoạt tính sinh học, có nhiều chất rất độc.
                  Tác dụng của alcaloid thường khác nhau và tác dụng của vị dược liệu không phải bao
                  giờ cũng giống như các alcaloid tinh khiết đã được phân lập, chúng sẽ được nêu
                  trong các chuyên luận dược liệu, ở đây chỉ xét một cách tổng quát.
                        - Alcaloid có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương gây ức chế như morphin, codein,
                  scopolamin, reserpin hoặc gây kích thích như strychnin, cafein, lobelin.

                        - Alcaloid có tác dụng lên hệ thần kinh giao cảm gây kích thích: ephedrin,
                  hordenin; làm liệt giao cảm: ergotamin, yohimbin hoặc kích thích phó giao cảm:
                  pilocarpin, eserin; có chất gây liệt phó giao cảm: hyocyamin, atropin; có chất phong
                  bế hạch giao cảm: nicotin, spartein, coniin.

                        -  Alcaloid  có chất gây tê tại chỗ: cocain; có chất có tác dụng cura: d -
                  tubocurarin; có chất làm giãn cơ trơn, chống co thắt: papaverin.
                        -   Alcaloid   làm   tăng   huyết   áp   (ephedrin,   hydrastin),   làm   hạ   huyết   áp
                  (yohimbin, alcaloid của Ba gạc và Veratrum) một số ít alcaloid có thể tác dụng trên
                  tim như ajmalin, quinidin và α - fagarin được dùng làm thuốc chữa loạn nhịp tim.
                        - Alcaloid diệt ký sinh trùng: quinin độc đối với ký sinh trùng sốt rét; emetin và
                  conessin độc đối với amip dùng để chữa lỵ; isopelletierin, arecolin dùng để trị sán.

                        Trên thế giới hiện nay dùng nhiếu thuốc tổng hợp nhưng vẫn không bỏ được các
                  alcaloid lấy từ cây cỏ, vì có chất chưa tổng hợp được, và cũng có nhiều thuốc sản xuất
                  tổng hợp không rẻ hơn chiết xuất hoặc tác dụng của chất tổng hợp chưa bằng tác dụng
                  của các chất lấy từ cây. Do đó có nhiều chất người ta vẫn dùng phương pháp chiết xuất
                  từ cây. Ví dụ như ajmalin, morphin, strychnin, ergotamin, reserpin, quinin, quinidin,
                  spartein, scopolamin ... hoặc vừa sử dụng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên vừa tổng
                  hợp hoặc bán tổng hợp, ví dụ như ajmalicin, theobromin, cafein, ephedrin, atropin,
                  vincamin, narcein...
   126   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136