Page 130 - Dược liệu
P. 130

nếu có lẫn các chất kiềm như amoniac, các amin cũng như chất béo và chất màu sẽ
                  ảnh hưởng tới kết quả khi định lượng bằng phương pháp trung hoà có dùng chỉ thị
                  màu. Nếu có amoniac và các amin sẽ gây sai số thừa, còn nếu có lẫn chất màu và
                  chất béo sẽ làm cho khi chuẩn độ khó quan sát vùng chuyển màu của chỉ thị.
                        Để loại amoniac và các amin người ta lợi dụng tính dễ bay hơi của nó. Sau khi
                  bốc hơi dung môi, cặn còn lại cho thêm vài ml ether hoặc ethanol, rồi cho bốc hơi hết
                  (nếu cần thu hồi dung môi thì mỗi lần cất cần chú ý khi lấy bình ra không để hơi
                  dung môi đọng ở trên rơi xuống).
                        Chất béo nói chung được loại đi trong quá trình tinh chế alcaloid bằng cách lắc
                  với acid loãng, sau đó kiềm hoá rồi chiết bằng dung môi hữu cơ nhiều lần, đôi khi
                  người ta cho thêm ether dầu hoả vào khi chuẩn độ để ngăn cản ảnh hưởng của chất
                  béo. Nếu dược liệu có nhiều chất béo thường loại chất béo bằng cách chiết dược liệu
                  với ether dầu hoả rồi mới chiết xuất lấy alcaloid sau.
                        Các chất màu thường được loại trong quá trình chuyển alcaloid từ dung môi này
                  sang dung môi khác hoặc khi thật cần thiết có thể dùng các chất hấp phụ màu.

                        Sau khi đã có dịch chiết alcaloid base, có thể tiến hành định lượng bằng cách
                  hoặc lắc alcaloid trong dung môi hữu cơ với lượng chính xác acid chuẩn độ dư, sau
                  đó định lượng acid thừa bằng kiềm tương ứng, hoặc làm bốc hơi dung môi hữu cơ,
                  cắn alcaloid còn lại được định lượng trực tiếp hay gián tiếp bằng acid chuẩn độ.

                        Người ta thường dùng HCl hoặc H 2SO 4 có nồng độ 0,01 - 0,1N để chuẩn độ, chỉ
                  thị màu dùng trong định lượng alcaloid phần lớn là metyl đỏ. Vì theo lý thuyết cũng
                  như thực tế pH của hầu hết các muối alcaloid đều có vùng chuyển màu của chỉ thị
                  này (pH 4,2 - 6,3).

                        Vài alcaloid (ví dụ như hydrastin, narcotin, alcaloid của vỏ lựu...) có điểm
                  tương đương trên đường cong chuẩn độ ở khoảng pH4, trong trường hợp này người
                  ta dùng metyl da cam làm chỉ thị màu.
                        Một số trường hợp dùng hỗn hợp chỉ thị để quan sát rõ vùng chuyển màu hơn là
                  dùng một chỉ thị màu (ví dụ định lượng alcaloid trong vỏ canhkina người ta đã dùng
                  hỗn hợp metyl đỏ và xanh metylen làm chỉ thị).
                        Khi tính kết quả, nếu trong dược liệu có nhiều alcaloid mà chúng đều định
                  lượng được bằng phép chuẩn độ sẽ tính theo một hệ số là khối lượng phân tử trung
                  bình của các alcaloid có trong dược liệu, nhưng kết quả này không được chính xác vì
                  tỉ lệ alcaloid thường khác nhau. Do dó người ta thường tính theo một alcaloid chính
                  của dược liệu; ví dụ định lượng alcaloid toàn phần trong lá benladon thì tính theo
                  hyoscyamin, trong ma hoàng tính theo ephedrin.

                  1.7.3. Phương pháp đo quang
                        Phương pháp đo quang chỉ cần một lượng nhỏ alcaloid, lại có độ nhạy và có kết
                  quả nhanh, do đó cũng là phương pháp hay dùng để định lượng alcaloid. Hầu hết các
                  alcaloid không có màu nhưng có thể tiến hành định lượng bằng phương pháp đo
                  quang theo nguyên tắc:

                        -Dựa vào phản ứng tạo màu của alcaloid, dùng dung dịch có màu đó để định
                  lượng.

                        Ví dụ: Alcaloid của cựa khoả mạch tạo màu xanh lơ với p. dimetylamino -

                        benzaldehyd ở môi trường H 2SO 4 đặc và có tác dụng của chất oxy hoá (H 2O 2
   125   126   127   128   129   130   131   132   133   134   135