Page 121 - Dược liệu
P. 121

vòng mà ở mạch nhánh như: ephedrin trong ma hoàng (Ephedra sinica Staf.)…; một
                  số alcaloid không có phản ứng kiềm như colchicin lấy từ hạt tỏi độc, theobromin
                  trong hạt cây cacao (Theobroma cacao L.) và có alcaloid có phản ứng acid yếu như
                  arecaidin và guvacin trong hạt cau (Areca catechu L.).

                  1.2. Danh pháp

                        Các alcaloid trong dược liệu thường có cấu tạo phức tạp nên người ta không gọi
                  tên theo danh pháp hoá học mà thường gọi chúng theo một tên riêng. Tên của
                  alcaloid luôn luôn có đuôi “in” và xuất phát từ:

                     - Tên chi hoặc tên loài của cây + in. Ví dụ: Papaverin từ Papaver somniferum;
                        strychnin từ Strychnos

                     - Đôi khi dựa vào tác dụng của alcaloid đó. Ví dụ như emetin từ emetos có nghĩa
                        là gây nôn, morphin do từ morpheus.
                     - Có thể từ tên người + in. Ví dụ như pelletierin từ tên riêng Pelletier, nicotin từ
                        tên riêng J. Nicot.

                     - Những alcaloid phụ tìm ra sau thường được gọi tên bằng cách thêm tiếp đầu
                        ngữ hoặc biến đổi vĩ ngữ của alcaloid chính (biến đổi in thành - idin, - anin, -
                        alin...), hoặc biến đổi vần. Ví dụ narcotin, cotarnin, tarconin,…

                        Các đồng phân thường có tiếp đầu ngữ: pseudo, iso, epi, allo, neo, homo, meso...

                  1.3. Tính chất
                  1.3.1. Lý tính

                  - Thể chất: Phần lớn alcaloid trong thiên nhiên công thức cấu tạo có oxy, nghĩa là
                  trong công thức có C, H, N, O, những alcaloid này thường ở thể rắn ở nhiệt độ
                  thường. Ví dụ: morphin (C 17H 19NO 3), codein (C 18H 21NO 3), strychnin (C 21H 22N 2O 2), ...
                        Những alcaloid thành phần cấu tạo không có oxy thường ở thể lỏng. Ví dụ như
                  coniin (C 8H 17N), nicotin (C 10H 14N 2), spartein (C 15H 26N 2). Tuy nhiên cũng có vài chất
                  trong thành phần cấu tạo có oxy vẫn ở thể lỏng như arecolin (C 8H 13NO 2), và có  chất
                  không có oxy ở thể rắn như sempervirin (C 19H 16N 2).

                        Các alcaloid ở thể rắn thường kết tinh được và có điểm chảy rõ ràng, nhưng
                  cũng có một số alcaloid không có điểm chảy vì bị phá huỷ ở nhiệt độ trước khi chảy.
                  Những alcaloid ở thể lỏng bay hơi được và thường vững bền, không bị phá huỷ ở nhiệt
                  độ sôi nên cất kéo được bằng hơi nước để lấy ra khỏi dược liệu.

                  - Mùi vị  :đa số alcaloid không có mùi, có vị đắng và một số ít có vị cay như
                  capsaicin, piperin, chavicin...

                  - Màu sắc: Hầu hết các alcaloid đều không màu trừ một số ít alcaloid có màu vàng
                  như berberin, palmatin, chelidonin.
                  - Độ tan: Nói chung các alcaloid base không tan trong nước, dễ tan trong các dung
                  môi hữu cơ như metanol, etanol, ether, cloroform, benzen... trái lại các muối alcaloid
                  thì dễ tan trong nước, hầu như không tan trong các dung môi hữu cơ ít phân cực.
                        Có một số trường hợp ngoại lệ, alcaloid base lại tan được trong nước như, nicotin,
                  spartein, colchicin, cafein.... Một số alcaloid có chức phenol như morphin, cephelin tan
                  trong dung dịch kiềm. Muối alcaloid như berberin nitrat lại rất ít tan trong nước.
                        Dựa vào độ tan khác nhau của alcaloid base và muối alcaloid người ta sử dụng
   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125   126