Page 116 - Dược liệu
P. 116

Dưới tác dụng của acid hoặc enzym dễ tạo thành chất đỏ tanin hay phlobaphen.
                  Phlobaphen rất ít tan trong nước là sản phẩm của sự trùng hiệp hoá kèm theo oxy hoá,
                  do đó tanin pyrocatechic còn được gọi là phlobatanin. Phlobaphen là đặc trưng của
                  một số dược liệu như vỏ Canh ki na, vỏ Quế...
                        - Khi cất khô thì cho pyrocatechin là chủ yếu.
                        - Cho tủa màu xanh lá đậm với muối sắt ba.
                        - Cho tủa bông với nước brom.
                        - Khó tan trong nước hơn tanin pyrogallic.
                        Tanin ngưng tụ được biết nhiều trong các chi  Acacia, Camellia, Cinchona,
                  Cinnamomum, Colophospermum, Rheum, Salix...
                        Một số chất tanin đặc biệt: những chất tanin này có sự kết hợp giữa tanin ngưng
                  tụ và tanin thuỷ phân được . Đây là những gallo và ellagiflavotanin.
                  1.3. Tính chất
                        Tanin có vị chát, làm săn da, tan được trong nước, kiềm loãng, cồn, glycerin và
                  aceton, hầu như không tan trong các dung môi hữu cơ. Dương tính với "thí nghiệm
                  thuộc da"
                  1.4. Chiết xuất, định tính và định lượng
                  1.4.1. Chiết xuất
                        Tanin hầu như không tan trong các dung môi kém phân cực, tan được trong cồn
                  loãng, tốt nhất là nước nóng. Hiệu suất chiết được nâng cao nếu được tác động bằng
                  siêu âm. Sau khi chiết bằng nước, có thể tủa tanin bằng (NH 4) 2SO 4, lọc, lấy tủa, hoà lại
                  trong aceton nước ( 6:1), cất đến khô rồi rửa bằng ether. Trong quá trình chiết xuất,
                  muốn tránh sự oxy hoá thì có thể cho thêm vào dịch chiết một ít acid ascorbic hoặc
                  metabisulfit. Muốn tách tanin người ta thường chiết từng phân đoạn theo độ phân cực
                  của dung môi rồi sắc ký qua gel với Sephadex hoặc sắc ký điều chế với chất hấp phụ là
                  polyamid, triển khai bằng cồn nước với các độ cồn khác nhau, cũng có thể tách bằng
                  sắc ký giấy.

                  1.4.2. Định tính
                         Thí nghiệm thuộc da. Lấy một miếng "da sống chế sẵn" ngâm vào dung dịch
                  acid hydrochloric 2% rồi rửa với nước cất, sau đó thả vào dung dịch định thử trong 5
                  phút. Rửa lại với nước cất rồi nhúng vào dung dịch sắt (II) sulfat 1%. Nếu miếng da có
                  màu nâu hoặc màu nâu đen là có tanin. " Da sống chế sẵn" ở đây là một màng chế từ
                  ruột của bò và đóng vai trò tương tự như da chưa thuộc.
                        Kết tủa với gelatin. Dung dịch tanin (0,5-1%) khi thêm vào dung dịch gelatin 1%
                  có chứa 10% natrichlorid thì sẽ có tủa. Acid gallic và các pseudotanin khác cũng làm
                  kết tủa gelatin nhưng với dung dịch tương đối đậm đặc.
                          Kết tủa với phenazon. 5ml dịch chiết nước, thêm 0,5g phosphat acid natri, đun
                  nóng, để nguội, lọc. Thêm vào dịch lọc dung dịch 2% phenazon sẽ thấy có tủa và
                  thường có màu.
                         Kết tủa với các alcaloid. Tanin tạo tủa với các alcaloid hoặc một số dẫn chất hữu
                  cơ có chứa nitơ khác như hexamethylen tetramin, dibazol...
                        Kết tủa với muối kim loại. Tanin cho tủa với các các muối kim loại nặng như chì,
                  thuỷ ngân, kẽm, sắt.
                        Với muối sắt những tanin khác nhau cho màu xanh lá hay xanh đen với đậm độ
                  khác nhau.
                        Có thể dựa vào tủa với muối sắt để xác định tanin trên vi phẫu.
                        Phản ứng Stiasny. Để phân biệt 2 loại tanin người ta dựa vào phản ứng Stiasny:
                  Lấy 50ml dung dịch tanin, thêm 10ml formol và 5ml HCl, đun nóng. Tanin pyrogallic
   111   112   113   114   115   116   117   118   119   120   121