Page 13 - Bào chế
P. 13

nào giải phóng thấp hơn 70% lượng dược chất quy định. Nếu có 1 viên không đạt thì
                  thử tiếp lần 2 với 6 viên khác và 6 viên này đều phải đạt yêu cầu..
                         Tiêu chuẩn nhà sản xuất: khi đăng ký thuốc, nhà sản xuất thường xây dựng
                  đồ thị hòa tan dược chất theo thời gian. Việc dùng đồ thị cho phép đánh giá cụ thể
                  hơn tốc độ hòa tan dược chất và sự đồng nhất giữa các viên thử.
                  5.4.1.4. Ý nghĩa của SKD in vitro

                        - SKD in vitro chưa phải là SKD thực sự. Có những trường hợp dược chất hòa
                  tan nhanh, nhưng chưa chắc đã được hấp thu tốt. Tuy SKD in vitro có bắt chước một
                  số điều kiện sinh học như trên đã trình bày, nhưng còn xa với điều kiện thực tế trên
                  cơ thể sống.
                        - SKD in vitro là công cụ kiểm soát chất lượng các dạng thuốc rắn để uống (viên
                  nén, nang thuốc, thuốc bột, pellet,...), đặc biệt là để đảm bảo sự đồng nhất chất lượng
                  giữa các lô mẻ sản xuất, giữa các nhà sản xuất.
                        - SKD in vitro dùng để sàng lọc công thức, định hướng cho đánh giá SKD in
                  vivo.

                        -  SKD  in  vitro  dùng  thay  thế  cho  SKD  in  vivo  khi  chứng  minh  được  có  sự
                  tương quan đồng biến giữa SKD in vitro và in vivo. Khi có thay đổi về thành phần
                  hay quy trình sản xuất đối với chế phẩm đó chỉ cần đánh giá SKD in vitro là đủ.

                  5.4.1. SKD in vivo
                  5.4.2.1. Quy định về đánh giá SKD in vivo
                        SKD in vivo đánh giá giai đoạn hấp thu dược chất từ chế phẩm bào chế.
                        SKD được đánh giá trên người hoặc súc vật thí nghiệm nên sự dao động giữa
                  các cá thể thường là khá lớn. Vì vậy khi đánh giá cần có đề cương quy định rõ các
                  điều kiện đánh giá như:
                        - Đối tượng thử: người tình nguyện khoẻ mạnh, tốt nhất là nam giới, được ăn
                  uống và sinh hoạt theo chế độ quy định (nhịn ăn qua đêm ít nhất 10 giờ trước khi
                  dùng thuốc và 2 giờ sau khi dùng thuốc).
                        - Lấy mẫu thử: nếu thử trên máu thì số lượng mẫu phải đủ đặc trưng cho pha
                  hấp thu và pha thải trừ, đủ để xác định được đỉnh nồng độ và cho phép xác định được
                  diện tích dưới đường cong của đồ thị ở ít nhất 3 lần thời gian bán thải của dược chất.
                  Nếu thử liều đơn theo phương pháp thiết kế chéo thì thường lấy 10 - 15 mẫu.
                        - Mẫu đối chiếu: tốt nhất là dùng thuốc gốc của nhà phát minh hoặc sản phẩm
                  có uy tín trên thị trường.
                        - Mẫu thử: là thuốc nghiên cứu sản xuất theo lô mẻ.
                        - Bố trí thử nghiệm và xử lý kết quả: thường dùng phương pháp thiết kế chéo
                  ngẫu nhiên. Người tình nguyện (thường là 12  - 24 người) được chia thành 2 nhóm
                  uống thuốc 2 lần. Thời gian giữa 2 lần dùng thuốc ít nhất bằng 5 lần thời gian bán
                  thải (t 1/2) của dược chất để đảm bảo thuốc của lần dùng trước đã được đào thảo hết
                  rồi mới dùng thuốc lần thứ 2.
                  5.4.2.2. Các thông số đánh giá SKD in vivo
                        Khi phân tích đồ thị nồng độ máu để đánh giá SKD in vivo người ta thường
                  đánh giá 3 thông số dược động học:





                                                                                                         10
   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18