Page 22 - Hóa dược
P. 22

Naloxon là thuốc đối kháng thực sự của opiat, giải độc morphin. Thời gian hiệu lực
                  của naloxon phụ thuộc vào liều và thường từ 1-4 giờ.
                         Naloxon được sử dụng cho trường hợp suy hô hấp do morphin và các thuốc giảm
                  đau tổng hợp.
                  Cách dùng- Liều lượng:

                         Người lớn dùng liều 0,4-2 mg/ngày bằng cách tiêm bắp, tiêm dưới da hay tiêm tĩnh
                  mạch. Trẻ em dùng liều 0,01 mg/kg cơ thể/24 giờ.
                  Dạng bào chế:
                         Thuốc tiêm chứa naloxon hydroclorid: 0,02 mg/ml; 0,4 mg/ml; 1 mg/ml

                  2. CÁC THUỐC GIẢM ĐAU, HẠ SỐT, CHỐNG VIÊM KHÔNG STEROID

                        Nhóm thuốc này bao gồm các chất có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm ở
                  những mức độ khác nhau opiat và trong cấu tạo của chúng không có cấu trúc steroid. Do
                  đó  chúng  còn  được  gọi  là  các  thuốc  chống  viêm  phi  steroid  (Nonsteroidal  Anti-
                  Inflammatory Drugs, NSAID).
                         Các thuốc này có tác dụng ức chế sự tiết chất trung gian hoá học gây đau ở ngoại
                  vi nên còn gọi là thuốc giảm đau ngoại vi.
                         Cơ chế chống viêm chủ yếu là do ức chế enzym  cyclooxygenase (COX) là enzym
                  xúc tác việc sản xuất một số chất trung gian đặc biệt là chất prostaglandin một chất gây ra
                  phản ứng đau, sốt, viêm. Có hai loại enzym  cyclooxygenase là COX-1 có ở thành dạ dày,
                  thành mạch, thận và COX-2 có ở tổ chức mô viêm hay tổn thương. Do đó thuốc ức chế
                  COX-2 thì có tác dụng điều trị, thuốc tác dụng lên COX-1 gây ra tác dụng phụ. Các thuốc
                  giảm đau, hạ sốt, chống viêm thông thường có tác dụng lên cả hai loại enzym trên. Một số
                  chất có tác dụng ưu tiên lên COX-2 thì ít có tác dụng phụ hơn.
                         Tác dụng hạ nhiệt còn do ức chế trung tâm điều hoà nhiệt ở vùng dưới đồi, gây
                  giãn mạch ngoại biên, tăng toả nhiệt và tăng tiết mồ hôi. Như vậy thuốc hạ nhiệt chỉ có
                  tác dụng chữa triệu chứng.
                         Một số chất đồng thời có cả 3 giảm đau, hạ sốt và chống viêm. Một số chất có thể
                  có một hay hai tác dụng trội hơn hoặc không có một tác dụng nào đó (paracetamol không
                  có tác dụng chống viêm) nhưng cùng một cơ chế tác dụng.
                         Tác dụng giảm đau của nhóm thuốc này chỉ đối với triệu chứng đau nhẹ do viêm
                  như đau đầu, đau răng, đau dây thần kinh, đau khớp, đau cơ; không có tác dụng giảm đau
                  nội tạng, không kích thích, không gây nghiện; có thể phối hợp các thuốc với nhau để tăng
                  cường tác dụng.
                  2.1. Phân loại

                         Dựa vào cấu trúc hoá học: chia thành các loại sau:
                         - Các dẫn chất của acid salicylic: Acid acetylsalicylic (aspirin), natri salicylat.
                         - Các dẫn chất  anilin: Phenacetin, paracetamol
                         - Dẫn chất  pyrazolon: Antipyrin, analgin,
                         - Dẫn chất  Indol: Indomethacin
                         - Dẫn chất của acid aryl propionic: Ibuprofen, ketoprofen, naproxen..
                         - Dẫn chất của acid antharanilic: Acid mefenamic..
                         - Dẫn chất của acid aryl acetic: Diclofenac (và muối natri)
                                                                                                              14
   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27