Page 31 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 31
2.1.4. Hấp thu thuốc qua đường hô hấp
Các thuốc ở thể lỏng, khí, chất dễ bay hơi và những chất rắn có khả
năng phân tán thành hạt siêu mịn có khả năng hấp thu qua đường hô hấp. Khi
hít thuốc vào phổi, thuốc sẽ hấp thu qua tế bào biểu mô phế nang vào máu.
Sự cân bằng nồng độ thuốc ở phế nang và ở máu xảy ra rất nhanh nên thuốc
phát huy tác dụng nhanh. Thuốc hấp thu tốt qua đường hô hấp bao gồm một
số thuốc gây mê qua đường hô hấp: Halothan, isofluran, enfluran, dinitro
oxyd (N 2O)…v.v.
2.1.5. Hấp thu thuốc qua da
Phần lớn các thuốc bôi ngoài da thường cho tác dụng tại chỗ. Tuy nhiên
đối với trẻ em thì việc hấp thu thuốc qua da tăng đáng kể do da trẻ em do có
lớp biểu bì mỏng nên khả năng thấm thuốc mạnh hơn so với người lớn. Vì
vậy khi dùng thuốc bôi ngoài da có độc tính cao cho trẻ em cần phải thận
trọng.
2.2. Phân bố thuốc
Sau khi hấp thu vào máu, phân tử thuốc tồn tại một phần ở dạng tự do
và một phần ở dạng gắn kết với protein huyết tương theo một tỷ lệ nhất định
tùy thuộc từng loại thuốc. Phần thuốc ở dạng phân tử tự do (không gắn với
protein) sẽ qua được thành mạch để tới các tế bào và mô. Quá trình phân bố
làm cho nồng độ thuốc trong máu và ở các mô đạt trạng thái cân bằng.
Việc gắn thuốc vào protein là thuận nghịch và thuốc sẽ được giải phóng
dần thành dạng tự do trong máu, từ đó vận chuyển dần vào tế bào và mô, từ
đó bắt đầu tác dụng. Những thuốc có tỷ lệ gắn với protein huyết tương cao sẽ
tồn tại lâu trong cơ thể và cho tác dụng kéo dài.
Khi được phân bố đến các tổ chức, một số thuốc có thể bị tích luỹ ở
một vài bộ phận trong cơ thể. Khả năng tích lũy thuốc trong cơ thể có thể kéo
dài hàng tháng, hàng năm hoặc vĩnh viễn. Ví dụ, asen, chì và những kim loại
nặng khác có khả năng tích lũy ở lớp sừng, lông, tóc. Tetracyclin tích lũy ở
xương, răng trẻ em làm phân hủy lớp ngà từ đó làm ố màu răng.
2.3. Chuyển hoá thuốc
31