Page 116 - Giáo trình môn học Cấu tạo cơ thể
P. 116
và rút ngắn thời gian chín của các tế bào này, do đó làm tăng tốc độ sinh hồng
cầu và tăng giải phóng hồng cầu ra máu ngoại vi. Ngoài ra erythropoietin
cũng làm tăng tổng hợp Hb trong bào tương hồng cầu.
- Sự tổng hợp erythropoietin còn chịu ảnh hưởng của hormon sinh dục
nam: testosteron kích thích sự sản xuất erythropoietin. Đó cũng là một trong
những lý do làm cho số lượng hồng cầu, nồng độ hemoglobin và hematocrit của
nam cao hơn của nữ.
3. Nhóm máu
Năm 1900, Landsteiner nhận thấy có sự ngưng kết hồng cầu khi trộn
máu của các cá thể trong cùng một loài với nhau. Từ đó, ông đã phát hiện ra
có kháng nguyên (KN) nhóm máu trên màng tế bào hồng cầu và kháng thể
(KT) trong huyết thanh, qua đó ông đã phân loại nhóm hồng cầu trên người.
Trong y học, người ta thường gọi nhóm hồng cầu là nhóm máu. Các kháng
nguyên nhóm máu thường có bản chất là glycoprotein.
Ở trên màng hồng cầu người, người ta đã tìm ra khoảng 30 loại kháng
nguyên thường gặp và hàng trăm loại kháng nguyên hiếm khác. Hầu hết
những kháng nguyên này này rất yếu (nghĩa là không gây ra đáp ứng miễn
dịch trên người nhận) và thường dùng để nghiên cứu về di truyền gen.
Từ các loại kháng nguyên trên màng hồng cầu, phân ra nhiều hệ thống
nhóm máu khác nhau, như: ABO, Rh, MN, Kell, Kidd, Duffy, Lewis.... Trong
đó, hai hệ thống nhóm máu có tính phổ biến và nhiều ứng dụng trên lâm sàng
là ABO và Rh.
3.1. Hệ nhóm máu ABO
3.1.1. Kháng nguyên nhóm máu
Là các kháng nguyên có mặt trên màng hồng cầu, có khả năng kích
thích sinh kháng thể. Hệ thống nhóm máu ABO có hai loại kháng nguyên là:
A và B.
Các kháng nguyên của hệ ABO có thể phát hiện được từ lúc bào thai 5-6
tuần, trong suốt thời kì bào thai lượng kháng nguyên tăng không đáng kể. Sau
112