Page 117 - Giáo trình môn học Cấu tạo cơ thể
P. 117
khi sinh, lượng kháng nguyên tăng dần và đạt mức ổn định sau 2-4 năm và tồn
tại hằng định suốt đời.
Gen của các kháng nguyên hệ ABO gồm 3 loại là A, B và O. Gen O hầu
như không hoạt động, nên không tạo được kháng nguyên trên màng hồng cầu;
còn gen A và gen B thì tạo ra các kháng nguyên mạnh A và B trên màng hồng
cầu. Mỗi một nhóm máu của hệ ABO có 2 gen đồng dạng nằm trên cặp nhiễm
sắc thể số 9 quy định, do vậy từ 3 gen sẽ tạo ra 6 genotyp.
Sự có mặt của kháng nguyên trên màng hồng cầu quyết định tên của
nhóm máu hệ ABO.
Dựa vào sự có mặt hay không có mặt của các kháng nguyên A và B
trên màng hồng cầu, Landsteiner phân hệ ABO thành 4 kiểu hình nhóm máu
là: A, B, AB và O (bảng 9.1).
3.1.2. Kháng thể nhóm máu
Kháng thể hệ ABO tồn tại trong huyết thanh. Tương ứng với 2 loại kháng
nguyên trên màng hồng, có hai loại kháng thể trong huyết thanh là: anti-A ()
và anti-B (), chúng có khả năng gây ngưng kết hồng cầu mang kháng nguyên
tương ứng.
Khi trẻ mới chào đời (giai đoạn sơ sinh) hầu như không tìm thấy sự có
mặt của các kháng thể nhóm máu. Sau sinh khoảng 2-8 tháng, cơ thể trẻ bắt
đầu sản xuất các kháng thể với nồng độ tăng dần và đạt tối đa vào khoảng 8-
10 tuổi. Sau đó, giảm dần theo tuổi.
Các kháng thể anti-A và anti-B thường là những kháng thể tự nhiên
(IgM), cũng có thể là kháng thể miễn dịch (IgG).
Các kháng thể miễn dịch anti-A, anti-B, đặc biệt là anti-A có thể gặp ở
người có nhóm máu O, vì vậy những người này được gọi là người có nhóm
máu O nguy hiểm, người mang nhóm máu O nguy hiểm không dùng để
truyền máu phổ thông như các nhóm máu O thông thường. Các kháng thể
miễn dịch cũng có thể gặp ở người nhóm máu A hoặc nhóm máu B, nhưng
hiếm hơn.
113