Page 105 - Giáo trình môn học Dược lâm sàng
P. 105
Khi bôi thuốc trên diện rộng, kéo dài hoặc băng ép sau khi bôi thì khả năng thấm
thuốc vào vòng tuần hoàn là rất lớn, gây tác dụng toàn thân: điều này cần đặc biệt lưu ý
khi dùng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ để tránh tác dụng kiểu cường thận (Cushing) gây chậm
lớn. Cũng có thể gặp suy thượng thận cấp sau khi ngừng bôi thuốc nhưng rất hiếm.
Tác dụng không mong muốn tại chỗ bao gồm:
Teo da thường gặp nhất khi bôi ở mặt và vùng quanh miệng.
Da ửng đỏ hoặc có nhiều vết lằn, thường gặp ở thanh niên khi bôi thuốc ở da khuỷ
tay, khuỷu chân.
Mất sắc tố da từng phần, ban đỏ thứ phát sau teo da cũng gặp nhưng không phổ biến.
Chậm liền sẹo. Trường hợp này hay gặp với các vết tổn thương do nằm lâu hoặc cọ
xát nhiều (khuỷu tay...).
Trên mắt: gặp khi dùng các dạng thuốc mắt có corticoid: đục thủy tinh thể, glaucome.
3.3. Chống chỉ định
Viêm da do virus, nấm. Những trường hợp viêm da có nhiễm khuẩn thì phải phối hợp
kháng sinh.
Tổn thương có loét.
Viêm da mặt có rối loạn vận mạch hoặc viêm nang lông (trứng cá).
3.4. Lựa chọn chế phẩm
Tác dụng điều trị và tác dụng không mong muốn đều xuất phát từ bản chất corticoid
nhưng mức độ nghiêm trọng phụ thuộc vào độ mạnh và khả năng thấm qua da của chế
phẩm.
Khi điều trị bệnh ngoài da, đa phần corticoid được dùng bôi trực tiếp lên vùng da bị
tổn thương (dùng đơn độc hoặc phối hợp với dạng uống).
Việc lựa chọn phải căn cứ vào độ mạnh yếu của chế phẩm:
Loại rất mạnh và mạnh chỉ nên dùng trong thời gian ngắn và bôi ở diện hẹp với một
số bệnh như sẹo lồi, vảy nến, lupus, lichen.
Loại trung bình và yếu thích hợp với trẻ em cho các vùng da mặt hoặc cho người lớn
trên những vùng tổn thương rộng.
3.5. Dạng bào chế
Thuốc mỡ (Ointment) là dạng thuốc có thể chất mềm; thành phần cấu tạo có nhiều tá
dược thân dầu như vaselin, lanolin, mỡ, sáp... thích hợp với các loại da khô, sần sùi, sừng
hóa.