Page 229 - Hóa phân tích
P. 229
mầm tạo ra càng ít nên các mầm có xu hướng phát triển thành hạt lớn, tạo tủa tinh
thể. Thực tế đây là một quá trình phức tạp. Thông số độ quá bão hòa mang tính
chất định tính và kết tủa có tích số tan càng bé càng dễ tạo ra hạt keo.
Sự kết tủa trong dung dịch thường chia thành hai loại: kết tủa vô định hình
và kết tủa tinh thể.
Nếu cho thuốc thử nhiều vào dung dịch, các mầm tinh thể tạo ra ồ ạt, chưa
kịp lớn lên thành hạt to đã tập hợp ngay thành kết tủa. Do quá trình tập hợp này quá
nhanh, các ion được sắp xếp một cách hỗn độn, không định hướng. Điều này dẫn
đến kết tủa không có hình dạng nhất định, nên gọi là kết tủa vô định hình. Loại tủa
này thường được hình thành khi kết tủa có độ tan nhỏ (S nhỏ nên độ quá bão hòa
của dung dịch qúa lớn) như tủa sulfid và hydroxyd của các kim loại nặng.
Có trường hợp cho thuốc thử vào dung dịch, các mầm được tạo ra từ từ. Các
mầm này có cơ hội phát triển thành hạt to. Các ion được sắp đặt trên mầm tinh thể
có hình dạng xác định. Vì vậy gọi là kết tủa tinh thể.
Tuy nhiên, ranh giới giữa hai loại kết tủa không rõ ràng. Bên cạnh yếu tố bản
chất của chất kết tủa, sự hình thành dạng tủa này hay dạng tủa khác còn phụ thuộc
cả vào điều kiện kết tủa. Để có kết tủa hạt to người ta chọn điều kiện sao cho độ
quá bão hòa là cực tiểu. Cụ thể:
+ Tiến hành tủa từ dung dịch loãng
+ Cho thuốc thử kết tủa vào dung dịch từ từ và khuấy đều dung dịch để làm
giảm độ quá bão hòa cục bộ.
+ Kết tủa ở pH thấp nhất có thể và đun nóng với mục đích tăng độ tan S.
+ Kết tủa trong môi trường đồng thể tạo điều kiện lí tưởng làm giảm độ quá
bão hòa của dung dịch. Trong trường hợp này thuốc thử không cho thẳng vào dung
dịch mà tạo thành từ từ ngay trong lòng dung dịch nhờ phản ứng hóa học đồng thể.
Điều này tránh được hiện tượng dư thuốc thử luôn tồn tại trong phương pháp kết
tủa thông thường. Nhờ kết tủa trong môi trường đồng thể, độ quá bão hòa rất thấp
219