Page 99 - Giáo trình môn học vi sinh vật học
P. 99
KHÁNG SINH VỚI VI KHUẨN VÀ SỰ KHÁNG KHÁNG
KHÁNG SINH
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1.Trình bày được định nghĩa, xếp loại và cơ chế tác động của thuốc kháng sinh.
2. Trình bày được nguồn gốc sự đề kháng kháng sinh, khả năng lan truyền và các biện
pháp ngăn ngừa sự gia tăng của vi khuẩn đề kháng.
Năm 1928, Fleming phát hiện nấm penicillium diệt Staphylococcus aureus ở bệnh
viện Saint Marie. Năm 1940, nhóm nghiên cưú ở Oxford (Flory, Chain và Hartley) đã
tinh chế được penicillin và mở ra kỷ nguyên dùng kháng sinh để điều trị bệnh nhiễm
trùng. Streptomycin được Waksman tìm ra năm 1944; 1947 Ehrlich tìm ra
chloramphenicol và năm 1948, Duggar tìm thấy chlortetracyclin. Đến nay có trên 2000
chất kháng sinh đã được xác định, song chỉ một số ít (khoảng 50) trong đó được dùng để
điều trị bệnh ở người.
Kháng sinh, thoạt đầu là do các tế bào sống, phần nhiều là vi sinh vật, đặc biệt là
nấm Streptomycetes tiết ra nên kháng sinh (antibioticum) được coi là yếu tố sinh học
ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn.
Đến nay kháng sinh còn là những dẫn xuất thu được sau những biến đổi hoá học
(gọi là kháng sinh bán tổng hợp) hay bằng đường sinh tổng hợp trong phòng thí nghiệm
(ví dụ sulfamid). Vì vậy, định nghĩa về chất kháng sinh đã được mở rộng, không phải duy
nhất chỉ do vi sinh vật sinh ra.
Một số kháng sinh ức chế đặc hiệu của quá trình trao đổi chất của vi khuẩn, do đó
dùng để chữa các bệnh nhiễm khuẩn như penicillin, streptomycin... . Một số kháng sinh
ức chế quá trình trao đổi chất của cả Procaryota (tế bào tiền nhân) và Eucaryota (tế bào
nhân thật) như mitomycin C, thì dùng để nghiên cứu thực nghiệm và một số có thể dùng
cho điều trị ung thư (actinomycin D).
99