Page 253 - Giáo trình môn học vi sinh vật học
P. 253
- Chẩn đoán vi khuẩn học là cần thiết và có ý nghĩa, nếu ta thu được bệnh phẩm
thích hợp và vận chuyển nhanh đến phòng thí nghiệm. Khi trả lời kết quả không được
khẳng định là vi khuẩn kỵ khí gây bệnh, nếu gặp nó ở vị trí ký sinh bình thường. Không
tìm vi khuẩn kỵ khí trong phân và trong đờm.
- Các bước chẩn đoán bao gồm: Nhuộm Gram xem hình thể và bắt mầu; Nuôi cấy
trong môi trường kỵ khí; Xác định sinh vật hoá học và rất quan trong là nếu xác định
được khả năng tạo gaz; Làm kháng sinh đồ nếu cần.
3. Nguyên tắc điều trị
Các kháng sinh thường dùng trong điều trị nhiễm khuẩn kỵ khí là: penicillin G,
cefoxitin, chloramphenicol, lindamycin và metronidazole. Lưu ý là B. fragilis thường
sinh -lactamase nên kháng penicillin.
Cần điều trị đồng thời vi khuẩn kỵ khí và vi khuẩn ái ký trong nhiễm trùng phối
hợp.
Vi khuẩn kỵ khí không sinh nha bào gây bệnh quan trọng nhất là Bacteriodes.
4. Bacteroides
4.1. Hình thể
Bacteroides là những trực khuẩn đa hình thái (cầu trực, trực), kích thước 0,5-1,0 x
1,5-8,0 m. Gram âm, bắt mầu fuchsin không đều. Đứng thành từng đám, thành đôi hoặc
chuỗi
4.2. Khả năng gây bệnh
Bacteroides bao gồm 22 loài, trong đó có 3 loài gây bệnh cho ngưới: B. fragilis, B.
melaninogenicus và B. corrodens.
Bacteroides là vi khuẩn gây nhiễm trùng kỵ khí nặng và nhiều nhất, đặc biệt là
viêm phúc mạc, nhiễm khuẩn huyết và áp xe. Các nhiễm trùng này thường xuất hiện sau
phẫu thuật, xuất huyết và bị bệnh mạn tính. Từ các ổ nhiễm ban đầu, Bacteroides đi theo
máu và đến các cơ quan khác. Có thể bị áp xe phổi do hít phải Bacteroides từ các dịch
của đường ruột. Nhiễm khuẩn kỵ khí là một nhiễm trùng nội sinh, không phải là nhiễm
khuẩn cộng đồng.
253