Page 22 - Giáo trình môn học Hóa sinh
P. 22
Chức năng chính của LDL là vận chuyển phần lớn cholesterol từ máu tới các
mô để để sử dụng. LDL được gắn vào thụ thể đặc hiệu ở màng tế bào, rồi được
đưa vào trong tế bào. Nồng độ LDL trong huyết tương từ 3.38 đến 4.16
mmol/l. Apo chính là apoB.
- Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL = high density lipoprotein) tỷ trọng 1.063-
1.210 g/ml, được tổng hợp ở gan và giải phóng vào hệ tuần hoàn dưới dạng HDL
mới sinh, rồi chuyển thành HDL 3 -> HDL 2 nhờ xúc tác của LCAT (lecithin
cholesterol acyl transferase). Thành phần: triglycerid 5%, cholesterol 20%,
phospholipid 25% và protein 55%, chức năng chính của HDL là vận chuyển trở
về các phân tử cholesterol từ các mô ngoại vi đến gan và ở gan, HDL là yếu tố bảo
vệ chống vữa xơ động mạch. Ở người, HDL trong máu tăng dần theo tuổi và sau
dậy thì, hàm lượng HDL ở nữ cao hơn ở nam giới.
- Lipoprotein (a) (Lp (a)): giống LDL nhưng có thêm một glycoprotein
đặc hiệu gọi là apo (a) và được nối với apB bằng một liên kết disulfid, có khả
năng glycosyl hoá cao.
Nồng độ Lp (a) trong huyết thanh liên quan đến sự phát triển của bệnh
mạch vành sớm, nhồi máu cơ tim và lên mạch máu não.
4. Tiêu hóa và hấp thu lipid
Lipid được cung cấp qua thức ăn hầu hết là triglycerid có acid béo không
no hoặc mạch ngắn (10 carbon) dễ được tiêu hoá và hấp thu.
Sự tiêu hoá lipid bắt đầu thực sự ở hành tá tràng, lipase của hành tá tràng
và tuyến tuỵ cùng tác nhân nhũ tương hoá là mật, muối mật.
Sự thuỷ phân triglycerid là không hoàn toàn ở hành tá tràng nên tạo hỗn
hợp gồm: triglycerid, diglycerid, monoglycerid, acid béo, glycerol. Hỗn hợp này
được hấp thu qua ruột nhờ sự khuyếch tán và phosphoryl hoá. Glycerol và acid
béo chuỗi ngắn qua tĩnh mạch cửa tới gan; acid béo chuỗi dài được tổng hợp
21