Page 66 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 66

trường hợp hấp thụ ngay một lúc. Nguyên nhân này liên quan tới khả năng tự
               phục hồi của tế bào ở cơ thể sống.
               2.2.3. Các vùng thể tích liên quan trong xạ trị.
                       Để phân bố liều lượng một các hợp lý tại thể tích bia, trong quá trình lập kế
               hoạch điều trị cho một bệnh ung thư nào đó, một số loại thể tích cần được xác định
               mà qua đó ta có thể đưa ra được phác đồ điều trị tối ưu.
                       Hai loại thể tích cần được xác định trước khi lập lập kế hoạch điều tri, đó
               là:
                       • Thể tích khối u thô (Gross Tumor Volume - GTV)
                       • Thể tích bia lâm sàng (Clinical Target Volume - CTV).
                       Ngoài ra, trong quá trình lập kế hoạch điều trị một số loại thể tích khác cần
               phải được xác định, đó là:
                       • Thể tích bia lập kế hoạch (Planning Target Volume - PTV)
                       • Các tổ chức nguy cấp (Organ at Risk - OR).
                       • Thể tích điều trị (Treatment Volumem - TV).
                       • Thể tích chiếu xạ (Irradiated Volume - IV)
                       Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại thể tích trên.
               a. Thể tích khối u thô
                       Là thể tích thể hiện sự lan rộng của các tế bào ác tính mà có thể sờ, nắn
               hay nhìn thấy được bằng thăm khám. Thể tích khối u thô bao  gồm cả khối u
               nguyên phát, các hạch di căn hay những di căn khác. Thể tích khối u thô thường
               đúng với các phần của sự phát triển ác tính, mà ở đó mật độ tế bào u là lớn nhất.
                       Hình dạng, kích thước và sự khu trú của thể tích u có thể được xác định bằng
               nhiều cách khác nhau như kiểm tra lâm sàng (khám, sờ nắn, nội soi...) bằng các kỹ
               thuật hình ảnh (chụp tia-X, cắt lớp vi tính CT, hay cộng hưởng từ-MRI, siêu âm
               v.v..).
               b. Thể tích bia lâm sàng
                       Là thể tích tế bào và mô chứa thể tích khối u thô, ngoài ra còn bao gồm
               các tổ chức rất nhỏ, cận lâm sàng cần phải xét đến khicần điều trị triệt để khối u
               đó.
                       Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy rằng quanh thể tích khối u thô thường có
               liên quan đến cận lâm sàng, nghĩa là nó gồm bản thân các tế bào ác tính, các đám
               tế bào nhỏ hay những lan rộng rất nhỏ, rất khó phát hiện. Thể tích bao quanh một
               khối u lớn thường có mật độ tế bào u lớn. Gần kề với mép của thể tích khối u và
               đi về phía ngoại vi thì mật độ tế bào giảm đi. Thông thường mép đường biên này
               khoảng 1cm). Thể tích khối u thô, cùng với giới hạn bao quanh này của các tổ
               chức liên quan tại chỗ được gọi là thể tích bia lâm sàng (CTV) và phải được tính
               đến trong mục đích điều trị triệt căn. Trong thực tế thường có không phải là một,
               mà hai thể tích cận lâm sàng, gọi là thể tích bia lâm sàng bậc 1, bậc 2... Cũng có
               trường hợp, ta có thể minh hoạ mọt khối u nguyên phát và hạch vùng của nó một
               cách riêng lẻ. Chảng hạn trường hợp điều trị ung thư vú bảo tồn, ở đó khối u vú
               và các hạch nách, thượng đòn là tách rời nhau về mặt giải phẫu. Trong một số
               trường hợp, ta có thể điều trị một trong hai thể tích bia lâm sàng với các liều
               lượng khác nhau. Trường hợp thường gặp là khi điều trị tăng cường “Boost” tại
               chỗ, ở đó một thể tích liều lượng cao nằm trong thể tích liều lượng thấp.




                                                            66
   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71