Page 69 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 69

Một phương pháp phân nhỏ liều trong khoảng 10 ngày được ghi nhận là đạt
               cùng một kết quả triệt sản và đảm bảo được sự hồi phục da bìu dái của cừu đực.
               Từ đó, người ta đã áp dụng chế độ điều trị u ác tính của người bằng cách chia nhỏ
               liều chiếu...Và mô hình điều trị được dựa vào tinh hoàn và bừu dái của cừu tượng
               trưng cho khối u và da người tương ứng. Cùng với tác dụng hồi phục của các tế
               bào lành như da chẳng hạn, chế độ phân nhỏ liều còn làm tăng hiệu quả tiêu diệt
               các tế bào ung thư do sự thay đổi về oxy và tái tạo sự phân bố tế bào theo chu kỳ
               phân chia của chúng. Cách giải thích và nhận định thông thường và hiệu quả của
               việc phân chia nhỏ liều (rất khác với những gì về hình dạng và đường cong sống
               sót của tế bào) được gói gọn trong khái niệm gọi là “Bốn tái tạo của sinh học
               phóng xạ” (Withers 1975) được trình bày dưới đây.
                (1) Sự tái tạo oxy (Reoxygenation)
                     Oxy trong khối u ác tính là một thông số rất quan trọng để đảm bảo có được
               độ nhạy phóng xạ cao. Đối với những loại bức xạ có LET thấp (như photon và
               electron), các tế bào được tưới oxy chỉ cần một liều lượng phóng xạ bằng 1/3 của
               liều chiếu trên loại thiếu oxy mà vẫn đạt cùng một kết quả như nhau (Thames và
               cộng sự - 1987). Điều này có nghĩa là những tế bào được cung cấp đầy đủ oxy sẽ
               tăng hiệu quả nhạy cảm phóng xạ gấp 3 lần (OER - Oxygen Enhancement Ratio).
               Những khối u bao gồm các tế bào thiếu oxy và các động mạch thuộc loại kháng
               tia xạ, khi được nhận đủ oxy thì vẫn sống sót được. Những tế bào im lặng này có
               thể chiếm đến 15% tổng số các tế bào (Hall - 1988). Với kỹ thuật xạ trị chia nhỏ
               liều, các tế bào im lặng trong khối u khi được cung cấp thêm oxy sẽ làm cho
               chúng nhạy cảm tia xạ hơn (Withers - 1985; Sephton - 1991).
                     Đó là những tế bào được cung cấp đầy đủ oxy khi bị chết đã để lại lượng
               máu được cung cấp sẵn có cho các tế bào thiếu oxy trước đó. Bằng cách này,
               quần thể các tế bào được cung cấp tốt oxy (do đó nhạy cảm tia xạ hơn) được duy
               trì theo một tỷ lệ không đổi.
                     (2) Tái phân bố (Redistribution)
                     Sự tái phân bố chu kỳ tế bào có thể là một yếu tố quan trọng cho tính “tự
               nhạy cảm tia xạ” (Withers - 1985). Vì sự nhạy cảm tia xạ của các tế bào là khác
               nhau ngay trong một chu trình phát triển. Các “pha” G 2/M muộn và G 1 muộn /S
               sớm là nhạy cảm tia xạ nhất trong một chu kỳ sinh sản của tế bào. Việc chia nhỏ
               liều lượng đảm bảo rằng tất cả các tế bào sẽ ở trong pha nhạy cảm ít nhất cùng
               thời gian với một hoặc hai lần chiếu xạ.
                     (3) Sự hồi phục (Repair)
                       Một điều quan trọng là phải có đủ thời gian để cho các tế bào lành hồi phục
               do tổn thương tia xạ. Người ta đã cho thấy rằng cần ít nhất 6 giờ giữa hai lần
               chiếu tia để các tế bào lành bị chiếu xạ kịp hồi phục. Dựa vào các kết quả thu
               được  của  chế  độ  phân  liều  theo  mô  hình  “CHART”  -  Continuosly
               Hyperfractioned Accelerated Radiotherapy (Sanders và cộng sự 1988), người ta
               thấy rằng thậm chí cần khoảng thời gian lâu hơn nữa đối với tuỷ sống để tránh
               viêm do tia xạ (Sanders - 1991). Sự hồi phục có một ý nghĩa đặc biệt đối với việc
               xạ trị áp sát sử dụng những máy với suất liều khác nhau (Williams và cộng sự,
               1993).






                                                            69
   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74