Page 68 - Giáo trình môn học Y học hạt nhân xạ trị
P. 68
sự phân bố liều lượng bên trong thể tích bia lập kế hoạch phải được cân nhắc sao
cho thể hiện được sự phân bố liều lượng đối với thể tích bia lâm sàng và các tổ
chức nguy cấp.
Khi xác định thể tích bia lập kế hoạch đối với thể tích bia lâm sàng đã cho,
người ta phải đánh gía hết tầm qaun trọng của những sự khác nhau có thể liên
quan đến sự phân bố chùm tia đã chọn, cân nhắc thêm sự phân bố giải phẫu, việc
áp dụng các dụng cụ cố định bệnh nhân v.v..
d. Các tổ chức nguy cấp
Các tổ chức nguy cấp là các mô lành nơi mà độ nhạy cảm tia xạ của chúng
có thể ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến việc lập kế hoạch điều trị và liều lượng
được chỉ định (chẳng hạn như tuỷ sống).
e. Thể tích điều trị
Thể tích điều trị là một thể tích được bao quanh bởi một đường đồng liều
trên bề mặt, đã được các nhà điều trị tia xạ lựa chọn và định rã sao cho đạt được
mục đích điều trị.
Một cách lý tưởng, liều lượng chỉ phân bố trên thể tích bia lập kế hoạch.
Tuy nhiên, do những hạn chế của kỹ thuật điều trị mà mục đích này rất khó thực
hiện được một cách hoàn chỉnh. Điều này dẫn đến việc phải xác định một thể
tích điều trị. Khi một liều lượng tối thiểu đối với một thể tích bia lập kế hoạch
đã được lựa chọn một cách thích hợp thì, trong một số trường hợp thể tích điều
trị gần trùng với thể tích bia lập kế hoạch…Nhưng trong một số trường hợp thể
tích điều trị thường lớn hơn nhiều so với thể tích bia lập kế hoạch.
Có một vài lý do để nhận biết thể tích điều trị. Trước hết kích thước, hình
dạng của một thể tích điều trị là một thông số hết sức quan trọng. Lý do khác là
sự tái phát nằm trong thể tích điều trị. Nhưng lại nằm ngoài thể tích bia lập kế
hoạch có thể coi là một thực tế. Sự tái phát bên trong trường chiếu là do không đủ
liều lượng đã chỉ định do thể tích đã xác định là chưa thích hợp. Đó không phải là
sự tái phát đường biên.
f. Thể tích chiếu xạ
Thể tích chiếu xạ là một thể tích mà các mô nhận được một liều lượng được coi
là có nghĩa trong việc liên quan đến tổng liều chịu đựng của các mô lành.
Việc so sánh các thể tích điều trị và thể tích chiếu xạ đối với những phân
bố chùm tia khác nhau có thể được sử dụng để lựa chọn như một phần của quá
trình lập kế hoạch điều trị.
2.2.4. Khái niệm “4 tái tạo” của sinh học phóng xạ
Lợi ích của việc phân nhỏ liều lượng không chỉ bắt nguồn từ sự khác nhau
về hình dạng của các đường cong tiêu diệt tế bào u và đường cong sống sót của
các tế bào lành. Trong thực tế, việc điều trị theo phương pháp chia nhỏ liều đã
được bắt đầu từ rất sớm, trước khi người ta thấy rằng có sự khác nhau về hình
dạng của các đường cong đó. Ban đầu, mục đích của việc chia tổng liều điều trị
thành nhiều mức nhỏ là để tránh những phản ứng cấp của sự đáp ứng sớm đối
với các mô lành, đặc biệt là tế bào da và các chất nhầy. Một ứng dụng sớm về sự
phân nhỏ liều được tiến hành ở Pháp vào đầu những năm 1920 là việc triệt sản
cừu đực, (Hall-1988) và người ta đã phát hiện thấy rằng khi chiếu xạ với một liều
lượng lớn, đơn lẻ và đủ mạnh để triệt sản thì xảy ra phản ứng cấp dữ dội ở da bìu
dái.
68