Page 29 - Dược liệu
P. 29

alcaloid cũng bị ảnh hưởng: atropin, apomorphin, cocain, homatropin, hyoscyamin,
                                                                                                       0
                  morphin, physostigmin và scopolamin. Nếu đun dung dịch gôm vài phút ở 100 C thì
                  oxydase bị hủy và tránh được sự tương kỵ.


                                                  2.9 GÔM ADRAGANT

                         Gôm adragant thu được từ một số cây thuộc chi Astragalus, họ Đậu-Fabaceae
                  cung cấp (chi này có đến 1000 loài). Loài chủ yếu cung cấp gôm này là cây Astragalus
                  gummifer Labill. Các loài khác như A. verus Oliver và A. piletocladus Fr. et Sint. cũng
                  cho gôm.

                  Đặc điểm thực vật và phân bố

                        Cây Astragalus gummifer Labill. là cây bụi nhỏ. Cây chậm lớn, chỉ tăng khoảng
                  1 cm chiều cao mỗi năm và đến năm thứ 60-75 cũng chỉ cao khoảng 1 m. Lá kép lông
                  chim chẵn, có lá kèm nhọn. Khi lá chét rụng, các cuống lá kép còn lại tạo thành những
                  gai nhọn. Hoa hình bướm màu vàng nhạt mọc thành chùm ở nách những lá phía dưới.
                  Quả loại đậu, có lông, chỉ chứa 1 hạt, không mở. Các loài Astragalus thường mọc ở độ
                  cao từ 1000 - 3000 m.

                        Những nơi cung cấp gôm chính: Syria, Iran, Iraq, Hy Lạp, Turmenia, Armenia…

                        Sự tạo thành gôm và thu hoạch. Gôm được tạo thành do sự biến đổi của thành tế
                  bào tia ruột và ruột. Gôm bị ép bên trong thân cây nên khi có lỗ sâu đục hoặc vết rạch
                  sâu thì chảy ra. Hai ngày sau khi rạch thì thu hoạch gôm.


                  Mô tả dược liệu
                        Gôm adragant (Gummi Tragacanthae), tùy theo dụng cụ rạch mà có hình dạng
                  khác nhau, thường là những phiến cong có vân đồng tâm dài có thể đến 5-6 cm, rộng 2
                  cm. Gôm có màu trắng nhờ, đục như sừng. Khác với gôm arabic, gôm adragant nở ra
                  trong nước và chỉ tan một phần.

                  Thành phần hóa học

                        Thành phần polysaccharid là chính, polysaccharid này lại chia làm 2 loại:
                        Acid tragacanthic còn gọi là tragacanthin là thành phần tan trong nước chiếm
                  khoảng 10%, ở dạng muối Ca, K và Mg trong cây. Polysaccharid này cấu tạo có một
                  mạch   chính   là   các  -D-galacturonic   theo   dây   nối   (14)   đôi   khi   có
                  L-rhamnose   xen   vào,   còn   mạch   nhánh   nối   ở   C-3   gồm   có  D-xylose,   2-O--
                  galactopyranosyl-D-xylopyranose và 2-O--D-galacto-pyranosyl-D-xylopyranose.

                        Arabinogalactan hay còn gọi là bassorin chiếm 60-70%, là một polysaccharid
                  trung tính, không tan trong nước mà chỉ nở ra tạo thành thể keo, phân tử phân nhánh
                  nhiều, gồm mạch chính là các D-galactose nối theo dây nối (16) và (12), mạch
                  nhánh là các L-arabinose nối theo dây nối (12), (23), (15).

                        Khác với gôm arabic trong thành phần gôm adragant có tinh bột và không có
                  oxydase. Các chất vô cơ chiếm 3-4%.


                  Kiểm nghiệm
                        Không phản ứng với cồn gaiac hoặc với benzidin (để phân biệt với gôm arabic).
   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34