Page 206 - Dược liệu
P. 206
Dầu thầu dầu có tác dụng nhuận và tẩy là do acid ricinoleic. Khi vào cơ thể
enzym lypase thuỷ phân dầu giải phóng acid ricinoleic tự do, acid này kích thích nhu
động ruột. Liều dùng nhuận tràng 2 - 10 g dầu, tẩy 10 - 30 g dầu trong 1 ngày.
Cracking dầu thầu dầu thu được acid undecilenic và oenanthol. Acid undecilenic
dùng làm thuốc trị nấm ngoài da, oenanthol được dùng trong kỹ nghệ hương liệu để
tổng hợp các chất thơm.
Dầu thầu dầu còn dùng để điều chế xà phòng, dùng làm dầu bôi trơn cho các
động cơ máy bay, dầu phanh, dùng làm chất phá bọt trong các nồi hơi, nồi cất tinh dầu.
Hạt thầu dầu giã nhỏ chế thành thuốc cao dán để chữa viêm hạch cổ, viêm tuyến
vú. Thuốc cao dán gồm nhân hạt thầu dầu kết hợp với ngũ bội tử theo tỷ lệ 98: 2, dán
vào huyệt bách hội có thể chữa sa dạ dày.
Theo kinh nghiệm Y học dân tộc cổ truyền, lá tươi giã đắp vào gan bàn chân để
chữa sót rau, hoặc đem lăn vào trước ngực và sau lưng để chữa bệnh sởi không mọc.
Còn dùng diệt bọ gậy.
* Chú thích: Dầu thầu dầu không độc, nhưng hạt và khô dầu thầu dầu rất độc, vì
có chứa ricin. Khi bị ngộ độc có hiện tượng nóng cổ họng, buồn nôn, sốt, đi tả, huyết
áp hạ dẫn đến ngừng hô hấp và chết (ăn 10 hạt có thể chết người). Chữa ngộ độc bằng
cách gây nôn, rửa dạ dày, tiêm tĩnh mạch dung dịch glucose và dung dịch huyết thanh
kháng ricin kết hợp với thuốc giảm đau.
2.2 ĐẠI PHONG TỬ
Tên khoa học: Hydnocarpus anthelmintica
Pier., họ Mùng quân ( Flacourtiaceae).
Đặc điểm thực vật và phân bố.
Cây đại phong tử hay còn gọi là chùm bao
lớn, thuộc loại cây to, lá nguyên, dài, non thì
mềm, màu hồng, già thì khô và dai. Hoa màu
hồng, đơn tính cùng gốc, mọc ở kẽ lá, có khi có
cả hoa lưỡng tính. Quả to bằng quả bưởi, hình
cầu, vỏ dày chứa nhiều hạt có cạnh, nội nhũ có
chứa dầu.
Cây mọc hoang ở rừng rậm khá phổ biến ở
nước ta, nhiều nhất ở rừng miền Trung.
Bộ phận dùng:
Hạt (Semen Hydnocarpi).
Dầu đại phong tử (Oleum Hydnocarpi
hoặc Oleum Chaulmoograe).
Hình 7.3.Đại phong tử
Hydnocarpus anthelmintica Pier.
2. Thành phần hoá học.
Trong hạt có chứa chất béo, tỷ lệ 40 - 50% (so với nhân hạt).
Thành phần cấu tạo của dầu Đại Phong tử gồm acylglycerol của acid béo không
no: Acid oleic, acid linolenic và chủ yếu là các acid béo vòng (90%).