Page 174 - Dược liệu
P. 174

Nguyên tắc của phương pháp SKK là dựa trên sự phân chia của các thành phần
                  trong tinh dầu giữa 2 pha không trộn lẫn vào nhau. Pha cố định là các chất lỏng được
                  tẩm lên trên bề mặt của chất mang (cột nhồi) hoặc tráng thành một lớp phim mỏng
                  trong lòng cột tách (cột mao quản). Pha di động là các chất khí: H2, He, Ar, N2...
                  -  Phương pháp hoá học:
                        Thông thường là tạo các dẫn chất kết tinh bằng các phản ứng hoá học. Đo độ
                  chảy của các dẫn chất này và đối chiếu với tài liệu.
                  -  Phương pháp phân tích phổ:
                   Tách riêng từng cấu tử bằng các phương pháp sắc ký cột, SKLM chế hoá, các phương
                  pháp hoá học và dùng các phương pháp phân tích phổ để giải thích cấu trúc.
                  1.5.5. Định lượng các thành phần chính trong tinh dầu:
                        Ngoài phương pháp định lượng bằng SKK, nói chung các Dược điển đều qui
                  định các phương pháp vật lý, hóa lý và hoá học có thể áp dụng để định lượng các
                  thành phần chính trong tinh dầu. Nguyên tắc của phương pháp là dựa trên các phản
                  ứng đặc hiệu của các nhóm chức. Các nhóm chức có thể là:
                   - Alcol:
                  + Alcol toàn phần: Phương pháp thông thường là phương pháp acetyl hoá. Quá trình
                  định lượng được tiến hành qua 3 giai đoạn:
                        Giai đoạn 1: acetyl hoá alcol bằng lượng dư anhydrid acetic:







                        Rửa bỏ phần acid thừa, làm khô tinh dầu.
                        Giai đoạn 2: Xà phòng hoá một lượng chính xác tinh dầu đã acetyl hoá bằng một
                  lượng dư dung dịch kiềm chuẩn (NaOH 0,5N hoặc KOH 0,5N trong ethanol)

                                          R-OH-CO-CH 3   + KOH -> ROH + CH 3COOK


                        Giai đoạn 3: Định lượng dung dịch kiềm chuẩn dư bằng một dung dịch acid
                  chuẩn có nồng độ tương đương. Từ lượng kiềm tiêu thụ trong quá trình xà phòng hoá
                  tính ra được hàm lượng alcol toàn phần có trong tinh dầu.
                  + Alcol dưới dạng este:
                        Xà phòng hoá một lượng chính xác tinh dầu bằng lượng kiềm chuẩn và được tiến
                  hành tương tự như “giai đoạn 2 và giai đoạn 3" ở trên.
                  + Alcol tự do:
                        Căn cứ vào hàm lượng alcol toàn phần và alcol este sẽ tính được lượng alcol tự
                  do có trong tinh dầu.
                  - Aldehyd và ceton:
                        + Phương pháp tạo sản phẩm bisulfitic: Có 2 con đường dẫn đến sản phẩm
                  bisulfitic:
                        Trong   trường   hợp
                  thứ   2,   phải   trung   hoà
                  lượng   NaOH   bằng   acid
                  (thường dùng acid acetic)
                  thì phản ứng mới xảy ra
                  hoàn toàn. Phản ứng này
                  hay dùng trong định lượng
                  các hợp chất carbonyl có dây nối đôi ở vị trí  α, β  so với nhóm carbonyl, ví dụ citral,
                  aldehyd cinnamic.
   169   170   171   172   173   174   175   176   177   178   179