Page 103 - Dược liệu
P. 103

Các lá là duy nhất trong thực vật có hạt, có dạng hình quạt với các gân lá tỏa ra
                  thành phiến lá, đôi khi chia hai nhánh nhưng không bao giờ nối lại thành một hệ thống.
                  Hai gân lá đi vào phiến lá tại gốc lá và chia nhánh lặp lại thành hai; theo kiểu gọi là hệ
                  gân lá phân đôi. Các lá thông thường dài 5–10 cm, nhưng đôi khi tới 15 cm . Các lá
                  này trông tương tự như một số lá chét của dương xỉ đuôi chồn (Adiantum capillus-
                  veneris).


                        Các lá ở các cành non dài thông thường có vết khía hình chữ V hay có thùy,
                  nhưng chỉ từ mặt ngoài, giữa các gân lá. Chúng sinh ra ở phần đầu của các cành lớn
                  nhanh, mọc so le và cách nhau đều đặn; cũng như trên các cành non ngắn thành cụm ở
                  đầu cành.

                        Cây có nguồn gốc Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản) nay được trồng ở nhiều nơi
                  thuộc Châu Âu, Châu Mỹ. Cây được trồng như là cây cảnh trong công viên hay ven
                  đường.

                  Bộ phận dùng:


                        Lá (Folium Ginkgo)
                        Theo dược điển Mỹ, lá Bạch quả dược dụng không được có quá 3% cành và 2%
                  tạp chất hữu cơ khác. Lá phải chứa ít nhất 0,8% flavonol glycosid


                  Thành phần hóa học
                        Đã có rất nhiều nghiên cứu về thành phần hoá học, tiêu chuẩn hoá dược liệu và
                  tác dụng dược lý của lá Bạch quả trong hơn 30 năm qua.

                        Thành phần chính của lá Bạch quả gồm có các hợp chất terpen mà quan trọng
                  nhất là các diterpen lacton và các flavonoid. Ngoài ra, lá Bạch quả còn chứa một số
                  các hợp chất khác như sterol, acid hữu cơ.

                        Lá Bạch quả có chứa các dẫn chất diterpen lacton có cấu trúc đặc trưng của bạch
                  quả. Các chất có hoạt tính bao gồm ginkgolid A, B, C , và một sesquiterpen là
                  bilobalid.

                        Flavonoid   trong   lá   Bạch   quả   thuộc   nhóm   flavonol   với   các   chất   chính   là
                  kaempferol, quercetin và isorhamnetin. Ngoài ra còn có luteolin và tricetin.

                        Cao khô lá bạch quả được chiết bằng hỗn hợp aceton - nước với tỉ lệ trung bình
                  50:1   chứa   khoảng   22   -   27%   flavonol   glycosid   (quercetin,   kaempferol,   và
                  isorhamnetin); 5 - 7% terpen (trong đó có khoảng 2,8 - 3,4% ginkgolid A, B và C; 2,6
                  - 3,2% bilobalid) và không quá 5 ppm các acid ginkgolic.


                  Tác dụng và công dụng
                        Các tác dụng dược lý của lá Bạch quả chủ yếu là do tác dụng hiệp lực của các
                  thành phần có trong đó, các chất tinh khiết không có được các tác dụng giống như cao
                  toàn phần.

                        Trên thần kinh, cao chiết Bạch quả có tác dụng ức chế trên thực nghiệm sự tiến
                  triển và thúc đẩy sự hồi phục của phù não do độc chất hay tổn thương, giúp điều hoà
                  chuyển hoá năng lượng của não. Cao Bạch quả ức chế sự suy giảm các muscarinergic
   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108