Page 104 - Bào chế
P. 104

2.1.3. Các thuốc gây tê bề mặt
                         Tetracain hydroclorid, cocain hydroclorid được dùng khá phổ biến trong nhãn
                  khoa khi tiến hành các thủ thuật chẩn đoán hoặc là tiến hành các phẫu thuật nhỏ ở mắt.

                  2.1.4. Các thuốc điều trị bệnh glaucom
                         Dùng các thuốc như pilocarpin, carbachol hoặc các thuốc kháng thụ thể β như
                  betaxolol, timolol và bunolol có tác dụng làm giảm áp lực trong mắt.
                  2.1.5. Các thuốc giãn đồng tử
                        Thường dùng atropin, homatropin và scopolamin.
                  2.1.6. Các vitamin

                         Một  số  vitamin  như  vitamin  A,  vitamin  B2,  vitamin  C…cũng  được  pha  dưới
                  dạng thuốc nhỏ mắt riêng rẽ hoặc phối hợp với các dược chất khác.

                  2.1.7. Các thuốc dùng chẩn đoán
                         Natri fluorescein được dùng tại chỗ giúp chẩn đoán xước hoặc loét giác mạc và
                  các tổn thương ở võng mạc.
                  2.2. Dung môi
                        Dung môi dùng để pha thuốc nhỏ mắt chủ yếu là nước tinh khiết vô khuẩn.

                        Dầu thực vật cũng được dùng làm dung môi để pha thuốc nhỏ mắt. Dầu dùng
                  làm dung môi phải có đạt tiêu chuẩn dung môi pha thuốc tiêm và không gây kích ứng
                  đối với mắt. Trong số các dầu thực vật, dầu thầu dầu dùng tốt nhất để pha thuốc nhỏ
                  mắt do bản thân dầu này có tác dụng làm dịu niêm mạc mắt.
                  2.3. Các chất thêm vào công thức thuốc nhỏ mắt

                  2.3.1. Chất sát khuẩn
                        Mặc dù nước mắt có men lysozym có tác dụng kháng  khuẩn nhẹ, nhưng khả
                  năng ngăn ngừa sự nhiễm khuẩn từ môi trường vào mắt cũng rất hạn chế. Nếu nhỏ vào
                  mắt  một  chế  phẩm  thuốc  nhỏ  mắt  không  vô  khuẩn  thì  có  thể  gây  ra  nhiễm  khuẩn
                  nghiêm trọng ở mắt.
                         Thuốc nhỏ mắt là chế phẩm vô khuẩn, pha chế trong điều kiện môi trường, thiết
                  bị vô khuẩn và phải được tiệt khuẩn sau khi pha chế bằng một phương pháp tiệt khuẩn
                  thích hợp. Tuy nhiên, thuốc nhỏ mắt thường được đóng gói nhiều liều nên nguy cơ
                  thuốc nhỏ mắt bị nhiễm khuẩn từ môi trường sau mỗi lần nhỏ là rất cao. Do vậy, để
                  giữ thuốc luôn vô khuẩn trong cả quá trình sử dụng, thành phần thuốc nhỏ mắt thường
                  có chất sát khuẩn.
                        Mặc dù đã có chất sát khuẩn nhưng cũng không nên dùng những lọ thuốc sau khi
                  đã mở nắp quá một tuần vì lượng chất sát khuẩn có trong lọ thuốc có giới hạn.
                        Một số chất sát khuẩn thường dùng

                        Benzalkonium clorid:
                        Là một chất sát khuẩn có tác dụng diệt khuẩn mạnh và nhanh nên được dùng
                  trong nhiều dung dịch thuốc nhỏ mắt (có khoảng 60% các thuốc nhỏ mắt lưu hành trên
                  thị trường có chất sát khuẩn này).
                        Benzalkonium  clorid  hiệu  quả  sát  khuẩn  giảm  khi  dung  dịch  có  pH<5.
                  Benzalkonium clorid tương kỵ với các dược chất như salicylat, nitrat, natri fluorescein,
                  natri sulfacetamid và natri sulfamethoxypiridazin. Benzalkonium  clorid có tính hoạt
                  động bề mặt nên nó vừa có tác dụng sát khuẩn vừa có tác động làm tăng tính thấm của

                                                                                                        101
   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108   109