Page 99 - Bào chế
P. 99
o
7,0 thêm nước vừa đủ 1 lít, lọc trong, đóng chai và hấp tiệt khuẩn ở nhiệt độ 121 C
trong 30 phút.
Dung dịch có hàm lượng natri lactat từ 1,75 – 1,95%. Truyền dung dịch này
nhằm cung cấp trực tiếp nguồn ion natri để làm tăng nồng độ ion hydrocarbonat trong
trường hợp máu bị nhiễm acid nặng. Ion lactat nhanh chóng được chuyển hoá ở gan
thành hydrogen.
5.3.2. Dung dịch tiêm truyền dùng khi máu bị nhiễm kiềm
Dung dịch amoni clorid 2,14%:
Công thức: Amoni clorid 21,4 g
Nước cất để pha tiêm vđ 1000ml
o
Tiệt khuẩn chế phẩm ở 115 C trong 30 phút
Dung dịch chứa 400 mEq/lít ion amoni và ion clorid, có pH từ 4,5 – 6,0, được
truyền tĩnh mạch chậm (500ml trong 3 giờ) để lập lại cân bằng khi máu bị nhiễm kiềm
do chuyển hoá. Khi truyền dung dịch này vào máu, amoni clorid được đi qua hồng
cầu, dễ gây hiện tượng phá huyết. Để đảm bảo an toàn, người ta thường thêm glucose
vào dung dịch này, do glucose có tác dụng làm bền màng hồng cầu.
5.4. Các dung dịch tiêm truyền cung cấp chất dinh dưỡng
Trong trường hợp bệnh nhân không thể ăn, uống được trong một thời gian dài vì
những nguyên nhân bệnh tật nào đó. Khi đó nhu cầu về các chất dinh dưỡng cần thiết
như carbohydrate, các acid amin, các acid béo, các chất khoáng, các nguyên tố vi
lượng và các vitamin được cung cấp bằng cách tiêm truyền cho bệnh nhân các dung
dịch tiêm truyền có thành phần dinh dưỡng cần thiết.
Để cung cấp năng lượng có thể tiêm truyền các dung dịch glucose 10%, 20%,
30% hoặc dung dịch glucose 5% kết hợp với 5% ethanol, tiêm truyền nhũ tương béo
D/N hoặc tiêm truyền các dung dịch acid amin: Tryptophan (Pháp), Alvesine (Đức),
Moriamin (Nhật)...
Công thức nhũ tương tiêm truyền cung cấp năng lượng:
Dầu đậu tương 100 g
Phospholipid lòng đỏ trứng 12 g
Glycerin 22,5 g
Nước để pha thuốc tiêm vđ 1000 ml
Dầu đậu tương có chứa nhiều acid béo như acid linoleic (50%), acid oleic (26%)
và các acid palmatic, linolenic, stearic,…Các acid béo này có thành phần chính cung
cấp năng lượng cho cơ thể. Phospholipid lòng đỏ trứng là chất nhũ hoá thiên nhiên.
Đây là một nhũ tương tiêm truyền D/N nên kích thước các giọt phân tán của pha dầu
phải khống chế <0,5µm để không gây tai biến mạch khi tiêm truyền.
5.5. Các dung dịch bổ sung thể tích máu
Trong trường hợp bệnh nhân bị mất máu do chấn thương, do phẫu thuật hoặc do
chảy máu nội tạng. Tuỳ thuộc vào lượng máu bị mất mà người bệnh có thể bị tụt huyết
áp, truỵ tim và có thể tử vong nếu thể tích máu bị mất không được bù đắp kịp thời.
Trong trường hợp không có máu để truyền, có thể tạm thời bù lại thể tích máu bằng
cách tiêm truyền một số dung dịch của các chất có phân tử lượng cao. Khi truyền các
dung dịch này, do các chất tan có kích thước phân tử lớn, khó khuếch tán qua thành
96