Page 234 - Hóa dược
P. 234
Các acid thơm và dẫn chất như: acid salicylic và các dẫn chất của nó có tác dụng
điều trị nấm tại chỗ do làm tróc lớp sừng trên da.
1.2.1.3. Các azol
Gồm các dẫn chất imidazol và triazol có tác dụng điều trị nấm do ức chế enzym
cytochrom P450 của nấm làm gián đoạn quá trình tạo màng tế bào nấm dẫn tới nấm bị
tiêu diệt. Các thuốc này cũng ức chế enzym này ở người làm ảnh hưởng tới chuyển hóa
thuốc và tổng hợp hormon steroid ở người.
Đối với các nấm Candida albican, các thuốc ức chế việc biến đổi bào tử chồi thành
sợi nấm gây bệnh.
Một số azol có tác dụng toàn thân: fluconazol, itraconazol, ketoconazol các thuốc
còn lại có tác dụng tại chỗ: terconazol, miconazol...
1.2.1.4. Dẫn chất allylamin
Gồm các dẫn chất của naftifin có tác dụng ức chế tổng hợp ergosterol của nấm
làm tổn hại màng tế bào của nấm làm nấm bị tiêu diệt. không ảnh hưởng tới tổng hợp
hormon steroid va chuyển hóa thuốc của người.
Thuốc đại diện: Naftifin hydroclorid
1.2.1.5. Các kháng sinh chống nấm
Các kháng sinh kháng nấm có cấu tạo phức tạp với sự có mặt của các dây nối đôi
liên hợp nên gọi là polyen. Các kháng sinh chống nấm là thuốc kháng nấm phổ rộng, tác
dụng mạnh trên các nấm mốc, nấm da, nhưng có độc tính và khó tan trong nước nên ít
được sử dụng điều trị nấm toàn thân.
Cơ chế: liên kết với các sterol trên màng tế bào nấm, làm thay đổi tính thấm màng
tế bào nấm làm tế bào nấm bị tiêu diệt.
Hai thuốc polyen hay dùng hiện nay là amphotericin và nystatin. Ngoài các polyen
còn một số kháng sinh kháng nấm phân tử nhỏ khác như griseofulvin.
1.2.2. Một số thuốc cụ thể
CLOTRIMAZOL
Công thức:
Cl
C
N
N
,
C 22 H 17 ClN 2 P.t.l.:344 8
Tên khoa học: 1-[(2-clorophenyl) diphenylmethyl]-1H-imidazol.
226