Page 193 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 193
Là alcaloid chiết xuất từ vỏ cây canhkina, được dùng điều trị sốt rét từ
lâu và hiện vẫn là thuốc trị sốt rét ác tính quan trọng ở nước ta.
Thuốc diệt thể phân liệt trong máu của tất cả các ký sinh trùng sốt rét,
thuốc cắt cơn nhanh và ít bị kháng. Quinin có tác dụng cả với ký sinh trùng đã
kháng cloroquin (tuy nhiên ở vùng chưa kháng cloroquin thì tác dụng của
quinin kém hơn cloroquin).
Quinin cũng diệt được thể giao tử của P. vivax và P. malariae.
Cơ chế tác dụng của thuốc là ngăn cản tổng hợp acid nucleic trên ký
sinh trùng sốt rét.
Ngoài ra quinin còn có tác dụng kích thích tiêu hóa, hạ sốt, giảm đau,
dùng liều cao gây hạ huyết áp, chống loạn nhịp tim.
3.4.1.2. Hướng dẫn sử dụng
Bào chế dạng viên 125mg; 250mg; 300mg; thuốc tiêm 250mg/2ml;
500mg/2ml.
Quinin diệt thể phân liệt trong máu, đặc biệt là P. falciparum kháng
cloroquin và các thuốc khác. Nên dùng phối hợp với primaquin và sulfadoxin.
Cách dùng: Uống với liều như sau: 30mg/kg/24h, chia 3 lần x 7 ngày
Tiêm bắp quinin clohydrat 500mg với liều 30mg/kg/24h x 7 ngày.
Hoặc truyền tĩnh mạch quinin diclohydrat 500mg.
3.4.2. Cloroquin
3.4.2.1. Đặc điểm dược lý
Với ký sinh trùng sốt rét: Cloroquin diệt thể vô tính ở giai đoạn tiền
hồng cầu và trong hồng cầu, thể giao tử của các ký sinh trùng sốt rét (trừ vùng
P. falciparum kháng cloroquin). Thuốc cho tác dụng cắt cơn sốt rét nhanh,
thường dùng dự phòng và cắt cơn sốt rét do P. vivax và P. malariae.
Cloroquin không có tác dụng trên giai đoạn ngoài hồng cầu nên để
chống tái phát, phải phối hợp với primaquin.
Các tác dụng khác: diệt sán lá gan và amip gan, ức chế miễn dịch nên
dùng điều trị viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ, rối loạn chuyển hoá
porphyrin. và các loại ban da.
193