Page 51 - Giáo trình môn học Cấu tạo cơ thể
P. 51
- Tiếp đó enzym cắt nhánh (glycogen debranhching enzym) enzym này
có 2 hoạt tính:
Hoạt tính chuyển nhánh [(1-4) transglucosylase] thuỷ phân liên kết 1-4
glucosid giữa gốc thứ nhất và gốc thứ hai tính từ gốc nhánh, chuyển một đoạn
3 gốc glucose đến gắn vào đầu 1 chuỗi thẳng khác bằng cách tạo liên kết 1-4
glucosid, nhánh glycogen này được kéo dài thêm 3 gốc glucose, nhánh còn
lại chỉ còn một gốc glucose với liên kết 1-6 glucosid.
Hoạt tính cắt nhánh [glucosidase (1-6)] thuỷ phân liên kết 1-6 của gốc
glucose còn lại giải phóng glucose tự do.
- Phosphoglucomutase chuyển G1P thành G6P; G6P có thể tiếp tục đi vào
con đường đường phân (ở cơ) hoặc có thể bị thuỷ phân thành glucose (ở gan)
để cung cấp cho vòng tuần hoàn. Sau quá trình thoái hoá khoảng 90% gốc
glucose của glycogen chuyển thành G1P và 10 % chuyển thành glucose tự do.
5.2. Tổng hợp glycogen
Sự tổng hợp glycogen xảy ra thực tế ở tất cả các mô nhưng chủ yếu ở
gan và cơ, sự tạo thành glycogen xảy ra trong bào tương. Nguyên liệu để tổng
hợp glycogen là glucose.
- Glucose chuyển thành G6P rồi thành G1P. Từ G1P sự tổng hợp phân
tử glycogen gồm 3 bước nhờ 3 enzym là: UDP-glucose pyrophosphorylase,
glycogen synthetase và enzym gắn nhánh.
- Trước hết enzym UDP-glucose pyrophosphorylase xúc tác sự tạo thành
phân tử UDP-glucose từ G1P và UTP. UDP-glucose là chất “năng lượng cao”
hoàn toàn cho phép chuyển phân tử glucose để gắn vào phân tử glycogen kéo
dài phân tử này
- Sau đó glycogen synthetase vận chuyển UDP-glucose đến nhóm C 4-
OH của phân tử glycogen có sẵn ở đầu không khử tạo thành liên kết 1-4
glucosid và giải phóng phân tử UDP. UDP được tạo thành sẽ tác dụng với
ATP dưới tác dụng của nucleosid diphosphokinase.
- Glycogen synthetase không có khả năng tổng hợp phân tử glycogen từ
đầu mà chỉ có thể kéo dài mạch glycogen bằng liên kết 1-4.
47