Page 131 - Giáo trình môn học Cấu tạo cơ thể
P. 131
6.2. Giai đoạn hình thành nút tiểu cầu
Bình thường tiểu cầu không dính vào thành mạch mà trôi tự do theo
dòng máu. Khi thành mạch bị tổn thương làm bộc lộ các sợi collagen dưới nội
mạc tích điện (+). Do tích điện âm và có receptor với collagen nên tiểu cầu có
thể dễ dàng kết dính với thành mạch tổn thương. Các tiểu cầu này sẽ được
hoạt hoá, bài tiết các chất hoá học làm cho các tiểu cầu khác khi trôi qua sẽ
đến kết tụ lại, hình thành nút tiểu cầu (đinh cầm máu Hayem).
Sự hình thành nút tiểu cầu là một trong những cơ chế chủ yếu để cầm
máu vì ngoài tác dụng sơ bộ bịt kín tổn thương làm cho máu ngừng chảy nếu
tổn thương ở mạch nhỏ, các chất do tiểu cầu tiết ra còn có tác dụng co mạch
và gây đông máu.Khi số lượng hoặc chất lượng tiểu cầu giảm sẽ làm thời gian
chảy máu kéo dài, xuất hiện nhiều nốt xuất huyết dưới da và niêm mạc. Chảy
máu nặng xảy ra khi số lượng tiểu cầu giảm dưới 50 G/l, nếu số lượng tiểu
cầu chỉ còn 10 G/l thì bệnh nhân sẽ chết vì không cầm được máu.
6.3. Giai đoạn đông máu (hình thành cục máu đông)
Đông máu là một quá trình máu chuyển từ thể lỏng sang thể đặc, do sự
chuyển fibrinogen thành fibrin không hòa tan, và các sợi fibrin này sẽ trùng hợp
tạo ra mạng lưới fibrin giam giữ các thành phần của máu và máu đông lại. Cục
máu đông hình thành có tác dụng bịt kín chỗ tổn thương một cách vững chắc.
Quá trình đông máu được hình thành nhờ sự hoạt hoá các yếu tố đông
máu có trong máu, mô và tiểu cầu.
6.3.1. Các yếu tố đông máu
Bình thường trong máu và trong mô có chất gây đông và chất chống
đông. Đa số các chất gây đông ở dạng không hoạt động, nên máu không đông
được. Khi một yếu tố được hoạt hóa sẽ xúc tác cho sự hoạt hóa yếu tố tiếp
theo, tạo thành một dây chuyền phản ứng đến khi hình thành mạng lưới fibrin
và gây ra đông máu.
Có 12 yếu tố đông máu được xác định và ký hiệu bằng chữ số Lamã từ I
đến XIII (không có yếu tố VI).
127