Page 283 - Dược lý - Dược
P. 283
Các chỉ định khác: bệnh bạch cầu mạn dòng tủy và viêm gan C (không A, không B).
2.4.6.4. Interferon alfa - n3
Condilom mào gà: Tiêm vào chỗ tổn thương với liều 250.000 đơn vị, 2 lần mỗi tuần
trong 8 tuần (tối đa). Liệu pháp không được lặp lại ít nhất trong 3 tháng sau liệu trình đầu
tiên 8 tuần.
Lưu ý: Ðối với các tổn thương to thì có thể tiêm ở một số điểm xung quanh tổn
thương, dùng tổng liều là 250.000 đơn vị cho một tổn thương.
2.5. Thuốc kháng HIV
HIV (Human Immunodeficiency Virus) thuộc họ Retrovirus là virus gây hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (Acquired Immuno Deficiency Syndrom - AIDS).
AIDS xảy ra do sự tấn công của HIV vào tế bào hệ miễn dịch đặc biệt là tế bào T - CD4.
Đây là những tế bào báo cho hệ thống miễn dịch tấn công các sinh vật gây hại như virus và
vi khuẩn. HIV tự chèn vào các tế bào T này và kiểm soát chúng bằng cách tạo ra một loại
enzyme gọi là integrase. Integrase cho phép DNA của virus hợp nhất với DNA của các tế
bào T, từ đó, HIV có thể kiểm soát các hoạt động của tế bào làm các tế bào T không còn
khả năng báo hiệu hệ thống miễn dịch để chống lại một số bệnh nhiễm trùng và các bệnh
khác, bao gồm cả ung thư. Không có sự trợ giúp của enzyme này, HIV không thể chiếm
lấy các tế bào T để sao chép chính nó.
Chu kỳ sao chép của HIV cũng tương tự như các virus khác. Tuy nhiên khác với các
virus khác, ở chu kỳ sao chép của HIV có sự phiên mã ngược từ ARN thành ADN nhờ
enzym reverse transciptase (RT).
Dựa theo typ huyết thanh chia 2 loại HIV - 1 và HIV - 2, nhưng triệu chứng lâm sàng
và đường lây nhiễm của 2 loại HIV hoàn toàn giống nhau.
Thuốc kháng virus HIV chủ yếu gồm các nhóm sau:
- Thuốc ức chế integrase: thường được sử dụng ban đầu để điều trị HIV, chúng được
sử dụng phối hợp với các loại thuốc khác. Bao gồm: raltegravir, dolutegravir, elvitegravir,
bictegravir.
- Thuốc ức chế enzym phiên mã ngược:
+ Thuốc ức chế RT loại nucleotid (NRTI): abacavir, zidovudin, lamivudin,
tenofovir, emtricitabin, zalcitabin.
276