Page 69 - Giáo trình điều dưỡng cơ sở - HPET
P. 69
2.1. Nguyên nhân
2.1.1. Đối với người bệnh
Có rất nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến các NKBV ở người bệnh như:
- Các yếu tố nội sinh (do chính bản thân người bệnh): là các yếu tố các bệnh
mãn tính, mắc các bệnh tật làm suy giảm khả năng phòng vệ của cơ thể, trẻ sơ sinh
non tháng và người già. Đặc biệt các vi sinh vật cư trú trên da, các hốc tự nhiên của
cơ thể người bệnh có thể gây nhiễm khuẩn cơ hội, những người bệnh dùng thuốc
kháng sinh kéo dài…
- Các yếu tố ngoại sinh như: Vệ sinh môi trường, nước, không khí, chất thải,
quá tải bệnh viện, nằm ghép, dụng cụ y tế, các phẫu thuật, các can thiệp thủ thuật
xâm lấn…
- Các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ của NVYT như sự tuân thủ các
nguyên tắc vô khuẩn và vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế.
2.1.2. Đối với nhân viên y tế
Ba nguyên nhân chính làm cho NVYT có nguy cơ bị lây nhiễm. Thường là
khi họ bị phơi nhiễm nghề nghiệp với các tác nhân gây bệnh qua đường máu do tai
nạn nghề nghiệp trong quá trình chăm sóc người bệnh, thường gặp nhất là:
- Tai nạn rủi ro từ kim tiêm và vật sắc nhọn nhiễm khuẩn,
- Bắn máu và dịch từ người bệnh vào niêm mạc mắt, mũi, miệng khi làm
thủ thuật,
- Da tay không lành lặn tiếp xúc với máu và dịch sinh học của người bệnh
có chứa tác nhân gây bệnh.
2.2. Hậu quả
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ lụy cho người bệnh và cho hệ
thống y tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian nằm
viện trung bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự kháng
thuốc của vi sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp 2 đến 4 lần
so với những trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn
huyết bệnh viện là $34.508 đến $56.000 và do viêm phổi bệnh viện là $5.800 đến
$40.000. Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm tốn
thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Ở Việt Nam chưa có những nghiên cứu quốc gia đánh
64