Page 68 - Giáo trình điều dưỡng cơ sở - HPET
P. 68
trùng trong chăm sóc và điều trị, nhất là không tuân thủ rửa tay và sử dụng quá
nhiều kháng sinh.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện được định nghĩa
như sau: “ Nhiễm khuẩn bệnh viện là những nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian
người bệnh điều trị tại bệnh viện và nhiễm khuẩn này không hiện diện cũng như
không nằm trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. NKBV thường xuất hiện
sau 48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện” (sơ đồ 6.1).
Để chẩn đoán NKBV người ta thường dựa vào định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn
đoán cho từng vị trí NKBV, ví dụ như nhiễm khuẩn vết mổ sau phẫu thuật, nhiễm
khuẩn máu có liên quan đến dụng cụ đặt trong lòng mạch, nhiễm khuẩn đường tiết
niệu,... Hiện nay, theo hướng dẫn từ Trung tâm giám sát và phòng bệnh Hoa Kỳ
(CDC) và các Hội nghị quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh cho các vị trí nhiễm
khuẩn khác nhau và hiện đang được áp dụng để giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
trên toàn cầu. Dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng và sinh học, các nhà khoa học đã
xác định có khoảng 50 loại nhiễm khuẩn bệnh viện khác nhau có thể xảy ra tại bệnh
viện.
Sơ đồ 6.1: Thời gian xuất hiện nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn liên quan đến cơ sở y tế (CSYT) không chỉ là chỉ số chất lượng
chuyên môn, mà còn là chỉ số an toàn của người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ
về thực hành của nhân viên y tế (NVYT), chỉ số đánh giá hiệu lực của công tác
quản lý và là một chỉ số rất nhạy cảm đối với người bệnh và xã hội.
2. Nguyên nhân và hậu quả nhiễm khuẩn bệnh viện
NKBV không chỉ gặp ở người bệnh mà còn có thể gặp ở NVYT và những
người trực tiếp chăm sóc người bệnh. Do vậy, khi thực hiện những biện pháp
KSNK trong các CSYT cần quan tâm đến cả hai đối tượng này
63