Page 117 - Giáo trình môn học vi sinh vật học
P. 117
- Thứ nhất: Những căn cứ để xác nhận sự có mặt và xếp loại NKBV phải là phối
hợp của những bằng chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm.
+ Chứng cứ lâm sàng được chia ra thành: Quan sát trực tiếp vị trí nhiễm khuẩn
hoặc là tập họp của các dữ liệu như bệnh án.
+ Kết quả xét nghiệm bao gồm: Kết quả nuôi cấy vi khuẩn, test phát hiện kháng
nguyên hoặc kháng thể hay quan sát bằng kính hiển vi. Thông tin hỗ trợ là kết quả các xét
nghiệm khác như X-quang, siêu âm, nội soi, sinh thiết...
- Thứ hai: Chẩn đoán của bác sỹ lâm sàng hay bác sỹ phẫu thuật hoặc kết luận sau
hội chẩn.
Có hai tình huống đặc biệt được xem xét là NKBV:
- Nhiễm trùng mắc phải trong bênh viện nhưng không có bằng chứng cho đến lúc
ra viện.
- Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh khi đi qua đường đẻ.
Và 2 tình huống đặc biệt không được coi là NKBV:
- Nhiễm trùng có liên quan với biến chứng hay mở rộng nhiễm trùng có sẵn khi
nhập viện, trừ khi có sự thay đổi tác nhân gây bệnh hoặc có triệu chứng rõ ràng của một
nhiễm trùng mới.
- Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh do truyền qua rau thai (ví dụ giang mai bẩm sinh) và
có bằng chứng trong vòng 48 giờ sau khi sinh.
Cũng không được coi là NKBV nếu:
- Chỉ có hiện tượng vi khuẩn nhập cư và có mặt trên da, niêm mạc hay ở vết
thương hở mà không gây triệu chứng lâm sàng nào.
- Hoặc hiện tượng viêm do mô phản ứng với tổn thương hay phản ứng với hoá
chất.
2. Vai trò của nhiễm trùng bệnh viện
Nhiễm trùng bệnh viện là một trong những vấn đề lớn của truyền nhiễm học trên
toàn thế giới. Nó có ý nghĩa to lớn và luôn đặt ra yêu cầu đối với mọi cán bộ y tế.
Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới ở 47 bệnh viện của 14 nước có nguồn
nhân lực hạn chế (từ 1983 đến1985) cho biết, tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện là 3-21 người
117