Page 109 - Dược liệu
P. 109

rất dễ bị oxy hóa bởi không khí trong môi trường kiềm, các acyl coumarin cũng dễ bị
                  cắt nhóm acyl trong môi trường kiềm. Trong trường hợp này nên chiết bằng các dung
                  môi kém phân cực rồi tăng dần độ phân cực. Bốc hơi từng dung môi, kiểm tra sự có
                  mặt của coumarin rồi tách riêng biệt từng dẫn chất coumarin bằng sắc ký cột. Dùng
                  chất hấp phụ là silicagel, dung môi đẩy là CHCl 3  + 2% aceton, hỗn hợp aceton -
                  CH 3COOH - H 2O (90:10:1) hoặc dùng polyamid đẩy bằng MeOH với các độ cồn khác
                  nhau .
                        Để tinh chế có thể dùng phương pháp thăng hoa chân không.
                  1.4.2.Định tính.
                        Các dẫn chất coumarin có nhóm OH phenol tự do sẽ cho màu xanh với thuốc thử
                  FeCl3 .
                        Dựa vào phản ứng ghép đôi với muối diazoni: cho vào ống nghiệm 1-2ml dịch
                  coumarin trong cồn, thêm 3ml dung dịch NaCO3 2%. Đun cách thủy rồi để nguội,
                  thêm vào dung dịch vài giọt thuốc thử diazo (thuốc thử diazo của paranitroanilin hoặc
                  của acid sulfanilic). Màu bền và màu thay đổi tùy theo cấu trúc từ vàng, cam , đỏ cam,
                  hồng, đỏ .
                        Vi thăng hoa: để coumarin bám trên lam kính rồi cho tác dụng với 1 giọt dung
                  dịch I + KI, soi kính hiển vi sẽ thấy có tạo thành tinh thể iodo coumarin màu nâu sẫm
                  hoặc tím .
                        Dựa vào độ tan khác nhau khi mở vòng và đóng vòng lacton: cho vào 2 ống
                  nghiệm mỗi ống 1-2ml dịch chiết cồn từ dược liệu. Ống thứ 1 cho thêm 0,5 ml NaOH
                  10% rồi đun cách thủy cả 2 ống (ống có coumarin thường có màu vàng xuất hiện). Để
                  nguội, thêm vào mỗi ống 4ml nước cất, nếu ống thứ 1 trong hơn ống thứ 2 nhưng sau
                  đó acid hóa mà đục hoặc có kết tủa như ống thứ 2 thì sơ bộ xác định có coumarin.
                        Dựa vào huỳnh quang tăng lên ở môi trường kiềm khi soi dưới ánh đèn tử ngoại.
                  Nguyên nhân sau khi mở vòng lacton bằng kiềm thì coumarin tạo thành dẫn chất
                  hydroxycinnamic ở dạng cis (acid coumarinic). Chất này dưới tác dụng của tia tử
                  ngoại thì chuyển thành dạng trans (acid coumaric ) có huỳnh quang sáng hơn.












                        + Cách làm: nhỏ một giọt dung dịch có coumarin lên giấy thấm, nhỏ tiếp lên đó 1
                  giọt NaOH 5%, sấy nhẹ. Che ½ vết với đồng xu rồi chiếu tia tử ngoại trong vài phút
                  sau đó cất đồng xu đi, sẽ thấy nửa hình tròn không che thì sáng hơn nửa vòng tròn bị
                  che. Nếu tiếp tục chiếu thì độ sáng của ½ bị che sẽ sáng dần lên.
                        Chuyển coumarin thành dẫn chất hydroxamic bằng cách cho tác dụng với
                  hydroxylamin và kiềm, sau đó cho tác dụng tiếp với muối sắt III, sẽ tạo phức có màu.










                        + Cách làm: cho vài giọt dung dịch coumarin trong ether vào ống nghiệm, thêm 1
                  giọt dung dịch bão hòa hydroxylamin hydrochlorid trong cồn và một giọt KOH bão
   104   105   106   107   108   109   110   111   112   113   114