Page 58 - Bào chế
P. 58

Máy khuấy tuốc bin có thể có nhiều cánh khuấy thẳng hoặc cong (có thể có
                  răng cưa) được gắn vào một trục khuấy. Cánh khuấy tuốc bin cho lực phân tán mạnh
                  hơn cánh kiểu chân vịt. Lực cắt có thể gia tăng bằng cách dùng một vòng phân tán
                  được đục lỗ và bao quanh tuốc bin để chất lỏng từ tuốc bin có thể thoát ra qua các lỗ
                  này. Thiết bị khuấy kiểu tuốc bin có thể dùng điều chế các hỗn hợp có độ nhớt thấp,
                  trung bình hoặc hơi cao như mật.

                         Mức  độ  khuấy  trộn  và  phân  tán  bởi  cánh  khuấy  chân  vịt  hoặc  tuốc  bin  phụ
                  thuộc nhiều vào các yếu tố như tốc độ quay, cách di chuyển của dòng chất lỏng, vị trí
                  của thùng chứa và các cánh phụ của thùng chứa (kiểu dáng của thành thùng).

                         Thiết bị khuấy quy mô sản xuất (bao gồm cả cánh khuấy kiểu chân vịt) được
                  nhúng chìm trong một thùng chứa. Thùng chứa được thiết kế sao cho có thể đun nóng
                  hoặc làm lạnh dễ dàng. Các cánh cản được thiết kế bên trong thùng chứa có thể giúp
                  cho sự khuấy có hiệu quả hơn.
                         Các máy trộn dùng điện cỡ nhỏ sử dụng ở quy mô nhỏ. Các thiết bị này giúp
                  điều chế nhũ tương với chất nhũ hoá là gôm arabic hay thạch trong thời gian nhanh và
                  giúp tiết kiệm năng lượng.

























                   Hình 3.3. (A) Các kiểu cánh khuấy đơn giản (B) Thiết bị điều chế nhũ tương bằng lực
                                               khuấy cơ học ở quy mô sản xuất


                        Cần lưu ý là thiết bị khuấy cơ học cung cấp năng lượng lớn làm gia tăng nhiệt độ
                  của hỗn hợp đồng thời làm cho không khí lọt vào nhũ tương. Tính chất nhũ tương thay
                  đổi khi chuyển sang quy mô sản xuất.
                  Máy xay keo (Colloid mills):
                         Nguyên tắc hoạt động của máy xay keo là ép hỗn hợp qua 1 khe giữa stator và 1
                  rotor được quay với tốc độ lên đến 2.000 - 18.000 vòng/phút. Khoảng cách khe hẹp
                  giữa stator và rotor có thể điều chỉnh được, thông thường từ 25m trở lên. Hỗn hợp
                  nhũ tương khi được ép qua khe hẹp sẽ chịu một lực cắt cực mạnh để tạo thành một hệ
                  phân tán rất đồng đều, cho các tiểu phân rất mịn.







                                                                                                         55
   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63