Page 30 - Giao trinh- Chăm sóc sức khỏe sinh sản cộng đồng
P. 30

mang thai và khi sinh trong đời người phụ nữ ở các nước kém phát triển nhất lớn gấp hơn
                  300 lần so với phụ nữ ở các nước công nghiệp hóa. Không có tỷ lệ tử vong nào lại chênh
                  lệch lớn như vậy. Hơn nữa, hàng triệu phụ nữ nếu sống sót sau khi sinh nở thì cũng bị

                  thương tổn, nhiễm trùng, bệnh tật và khuyết tật xuất phát từ việc mang thai, và thường để
                  lại hậu quả suốt đời.
                         Bệnh thiếu máu, lại thêm sốt rét, HIV và các tình trạng ốm đau bệnh tật khác, làm
                  gia tăng nguy cơ tử vong ở bà mẹ do xuất huyết. Những nguy cơ ảnh hưởng lớn nhất tới
                  sức khỏe của trẻ sơ sinh là các trường hợp nhiễm trùng ở mức độ nghiêm trọng (như
                  nhiễm khuẩn/viêm phổi, uốn ván và tiêu chảy), ngạt thở và trẻ đẻ non. Cả ba vấn đề đó
                  cộng lại là nguyên nhân chính gây ra tới 86% số trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh.

                         Hầu hết các bệnh tật nêu trên có thể phòng ngừa hay điều trị được bằng những biện
                  pháp cơ bản như cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản có chất lượng, chăm
                  sóc trong thời kỳ mang thai, cán bộ y tế có tay nghề tham gia hộ sinh, tiếp cận với dịch vụ
                  cấp cứu phụ sản và trẻ sơ sinh khi cần thiết, đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, chăm sóc mẹ và
                  bé sau khi sinh cũng như tuyên truyền/giáo dục để tăng cường các tập quán sinh hoạt có
                  lợi cho sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy có thể ngăn chặn

                  khoảng 80% số ca tử vong ở bà mẹ nếu họ được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sản
                  phụ thiết yếu và chăm sóc sức khỏe cơ bản. Nếu làm tốt hơn việc điều tra, tiêm chủng cho
                  các bà mẹ và các biện pháp đảm bảo vệ sinh trong quá trình sinh nở và chăm sóc dây rốn
                  của trẻ sơ sinh có thể giảm thiểu tình trạng bị nhiễm trùng - là nguyên nhân gây ra 36% số
                  trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh.
                  2.7. Sốt rét
                         Màn tẩm thuốc làm giảm ca sốt rét ở phụ nữ mang thai và trẻ em. Khi phụ nữ kiếm
                  được tiền họ thường có xu hướng mua màn hơn là đàn ông. Tuy  nhiên, sử dụng màn

                  thường kết hợp với kiểu ngủ đôi khi làm giảm việc sử dụng của phụ nữ.
                         Trước đây, phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét thường có nguy cơ bị đe dọa
                  mắc bệnh. Một số trường hợp đã gây nên tử vong cả mẹ lẫn con. Hiện nay, đối tượng này
                  đã được bảo vệ tốt nhưng không nên chủ quan vì nó có thể xảy ra những tai họa không
                  lường trước được.

                  * Sốt rét và thai nghén
                         Người phụ nữ có thai nghén sẽ làm cho sức đề kháng miễn dịch bị suy yếu, tỷ lệ
                  mắc sốt rét tăng cao nhất là vào quý hai của thời kỳ mang thai; đặc biệt đối với người phụ
                  nữ mang thai lần đầu. Bệnh thường diễn biến nặng với đường huyết giảm, chủ yếu xảy ra
                  vào ba tháng cuối của thai kỳ, khi chuyển dạ và sau khi sinh đẻ.
                         Nếu người phụ nữ mang thai bị nhiễm chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium
                  falciparum thì nguy cơ mắc sốt rét ác tính sẽ cao hơn, có khi chiếm tỷ lệ từ 10% đến 15%
                  so với người phụ nữ không mang thai và tỷ lệ tử vong cũng thường cao, chiếm tỷ lệ 30%

                  hoặc cao hơn nữa.


                                                                                                              29
   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35