Page 219 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 219
cần theo dõi sát bệnh nhân, đề phòng giảm thân nhiệt đột ngột, mất nước làm
giảm khối lượng tuần hoàn dễ gây trụy tim mạch.
2.2.2.4. Các rối loạn do sốt gây ra
+ Rối loạn chuyển hóa
- Rối loạn chuyển hóa năng lượng: do nhu cầu tăng thân nhiệt nên
o
chuyển hóa năng lượng tăng rõ rệt (khi nhiệt độ tăng 1 C chuyển hóa tăng
3,3%, tiêu thụ oxy tăng 13%). Tăng chuyển hóa năng lượng mạnh nhất ở giai
đoạn đầu và giảm dần ở các giai đoạn sau của sốt.
- Rối loạn chuyển hóa chất: tăng thoái hóa glucid, lipid, protid, cơ thể
phải huy động các chất dự trữ để tạo năng lượng. Vì vậy, khi bị sốt bệnh nhân
cần chế độ ăn giàu năng lượng nhưng dễ tiêu hóa.
- Rối loạn chuyển hóa muối nước, kiềm toan: giai đoạn sốt đứng, kích
thích tăng tiết các hormon ADH, aldosteron, do đó tăng giữ nước, giữ muối,
bệnh nhân đi tiểu ít. Giai đoạn sốt lui, tăng bài tiết mồ hôi, tăng bài tiết nước
tiểu để thải nhiệt và thải các sản phẩm chuyển hóa sinh ra do sốt. Rối loạn
chuyển hóa các chất, nhất là glucid làm tích nhiều acid gây tình trạng nhiễm
toan.
+ Rối loạn chức năng các cơ quan trong sốt
- Rối loạn chức năng thần kinh: ở giai đoạn đầu của sốt, hệ thần kinh
thường ở trạng thái hưng phấn, giai đoạn sau bị ức chế. Bệnh nhân nhức đầu,
chóng mặt, mỏi toàn thân (sốt do cúm, thương hàn, viêm não...), có thể co giật
hoặc mê sảng (sốt phát ban, sốt do xoắn khuẩn, sốt ở trẻ em). Mức độ rối loạn
thần kinh phụ thuộc trạng thái của bệnh nhân, bản chất của tác nhân gây sốt,
các sản phẩm tạo ra trong quá trình sốt.
- Rối loạn chức năng tiêu hóa: thông thường có các biểu hiện đắng
miệng, chán ăn, đầy bụng, lưỡi trắng, khô niêm mạc môi, miệng, giảm hấp
thu... do giảm tiết các dịch tiêu hóa, tăng lên men ở ruột, giảm nhu động ruột,
giảm hấp thu.
- Rối loạn chức năng tuần hoàn: nhịp tim nhanh phụ thuộc cường độ
sốt, loại vi khuẩn và độc tố vi khuẩn, lưu lượng tuần hoàn tăng (thân nhiệt
219