Page 218 - Sự hình thành bệnh tật và sự phục hồi
P. 218
+ Sốt không do nhiễm khuẩn
- Do protid lạ: protid lạ đưa từ ngoài vào (do truyền đạm hoặc trong
thức ăn). Protid nội sinh do tổn thương các tế bào, các mô trong các trường
hợp hoại tử (viêm, bỏng, gãy xương, chấn thương...). Do muối: tiêm dung
dịch muối vào cơ thể, nhất là muối ưu trương. Do thuốc: một số thuốc có tác
dụng kích thích sinh nhiệt như thyroxin, giảm thải nhiệt như adrenalin. Do
thần kinh: sốt trong một số bệnh lý thần kinh: u não, chảy máu não, loạn thần.
2.2.2.3. Các giai đoạn của sốt
Người ta chia sốt làm ba giai đoạn: sốt tăng, sốt đứng, sốt lui.
+ Giai đoạn sốt tăng (tăng thân nhiệt)
Ở giai đoạn này sinh nhiệt tăng, thải nhiệt giảm, làm mất cân bằng của
hai quá trình sinh và thải nhiệt, chỉ số sinh nhiệt/thải nhiệt (SN/TN)>1. Biểu
hiện lâm sàng là phản ứng tăng sinh nhiệt: rét run, sởn gai ốc và phản ứng
giảm thải nhiệt: da nhợt do co mạch ngoại vi, giảm tiết mồ hôi. Do co mạch
ngoại vi dồn máu về nội tạng nên huyết áp tăng nhẹ, tăng áp lực lọc cầu thận, tăng
lượng nước tiểu. Ở giai đoạn này, sử dụng các thuốc hạ nhiệt hầu như không
có tác dụng, chườm cũng ít hiệu quả, không những thế còn làm mất thêm
năng lượng của cơ thể.
+ Giai đoạn sốt đứng (thân nhiệt ổn định ở mức cao)
Giai đoạn này sinh nhiệt không tăng nữa, nhưng thải nhiệt bắt đầu tăng
lên đạt mức cân bằng với sinh nhiệt (SN/TN) = 1 và cân bằng ở mức cao.
Biểu hiện lâm sàng là thân nhiệt ngoại vi tăng, mạch ngoại vi bắt đầu giãn
làm cho da trở nên hồng hào, hô hấp tăng, nhưng chưa có mồ hôi, da vẫn khô.
Lúc này có thể tạo điều kiện tăng thải nhiệt cho bệnh nhân bằng cách chườm,
cho thuốc hạ nhiệt.
+ Giai đoạn sốt lui (thân nhiệt trở về bình thường)
Sinh nhiệt bị ức chế dần để trở về bình thường, còn thải nhiệt tăng rõ
rệt (tỷ lệ SN/TN < 1), thân nhiệt giảm và trở về mức ổn định. Biểu hiện lâm
sàng: bệnh nhân ra nhiều mồ hôi, giãn mạch ngoại vi, đi tiểu nhiều. Do vậy
218