Page 57 - Giáo trình môn học Cấu tạo cơ thể
P. 57
9.2. Kỹ thuật lấy máu
Thời gian buộc garo thường buộc garo ở vị trí lấy máu tĩnh mạch. Tại
thời điểm 3 phút, sự ứ đọng máu làm tăng sự phân huỷ yếm khí glucose máu
và làm giảm pH máu cùng sự tích tụ của latate.
+
Hiện tượng thiếu oxy dẫn đến giải phóng K từ tế bào. Có sự tăng nồng
độ ion Ca và Mg ở máu trong thời gian buộc garo.
9.3. Chất chống đông
+ Chất chông đông sử dụng trong xét nghiệm hoá sinh là heparin
Heparin dưới dạng các muối như: amoni, Li, Na, K được sử dụng theo tỷ
lệ 25U/ml máu, hay 0,01 - 0,1ml heparin/ml máu. Ý nghĩa thường dùng cho
xét nghiệm sinh hóa cơ bản, không ảnh hưởng đến điện giải, nhưng lại làm
thay đổi hình thái tế bào.
Heparin nước có thể gây sai số do pha loãng mẫu máu, điều này có thể
khắc phục bằng cách làm đông khô heparin.
Ở các bệnh nhân bị chứng tăng tiểu cầu (thrombocytosis), giá trị tiểu cầu
+
vượt trên 800.000/μL (hoặc Giga/L), việc định lượng K không thể thực hiện
được trong huyết thanh, cần phải sử dụng thay thế bằng huyết tương chống
đông với heparin.
+ Fluoride (muối Na) được sử dụng với nồng độ 2 mg/ml máu. Fluoride
có tác dụng cản trở sự đông máu và sự đường phân (glycolysis), nên thường
được sử dụng để định lượng glucose máu, tốc độ đường phân (glycolysis) là
khoảng 7% mỗi giờ nên cần phải thêm một chất ức chế quá trình đường phân,
như NaF (sodium fluoride) hoặc iodoacetate vào ống lấy mẫu máu trước nếu
mẫu máu chưa được làm xét nghiệm trước một tiếng sau lấy máu .
Ngoài các xét nghiệm đường, điện giải các xét nghiệm khác có thể dùng
chất chống đông như EDTA, natricitrat.
9.4. Cách bảo quản và vận chuyển mẫu máu
- Sau khi ly tâm máu toàn phần ở khoảng 3.000 vòng/ phút trong
10 phút, phần dịch nổi (supernatant) phía trên là huyết thanh, tách ngay huyết
thanh ra khỏi khối hồng cầu. Trì hoãn việc tách hồng cầu khỏi huyết thanh sẽ
53