Page 32 - Giáo trình môn học nghiên cứu khoa học
P. 32
Đối với nghiên cứu thử nghiệm, người nghiên cứu sử dụng biến số độc
lập X (X là một phương pháp điều trị mới) với hai nhóm mẫu nghiên cứu, nhóm
chịu thử nghiệm (X a) và nhóm chứng (X b); Kết quả điều trị được ký hiệu là Y
(Y là biến số phụ thuộc). Giả thuyết nghiên cứu trong nghiên cứu thử nghiệm
nêu lên tác động của X đối với Y. Biến số độc lập (X) có thể làm tăng hoặc
giảm biến số phụ thuộc (Y) và người nghiên cứu có thể trình bày khái quát giả
thuyết nghiên cứu như sau: Giả thuyết H 0: Y sẽ không khác biệt trong số những
người nhận X a và X b. Giả thuyết H 1: X a hiệu quả hơn X b trên Y.
Ngược lại, đối với nghiên cứu không thực nghiệm thì giả thuyết nghiên
cứu được trình bày theo mối quan hệ giữa các biến số. Ví dụ, Vụ Điều trị - Bộ Y
tế tiến hành điều tra tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện (NTBV) trên 5396 người bệnh,
tại 11 bệnh viện toàn quốc, 10/2001. Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu từ
trước, các tác giả đã đưa ra các giả thuyết trước khi tiến hành nghiên cứu như
sau:
Giả thuyết 1: những người bệnh có phẫu thuật có xác suất nhiễm trùng
vết mổ cao hơn những người bệnh không phẫu thuật.
Giả thuyết 2: những người bệnh có phẫu thuật kéo dài trên 180 phút sẽ có
xác suất bị nhiễm trùng vết mổ cao hơn những người bệnh có phẫu thuật dưới
180 phút.
Giả thuyết 3: những người bệnh có thông tiểu sẽ có xác suất nhiễm trùng
bệnh viện đường niệu cao hơn người bệnh không có thông tiểu.
Giả thuyết 4: những người bệnh có thông khí hỗ trợ sẽ có xác suất nhiễm
khuẩn bệnh viện đường hô hấp cao hơn người bệnh không có thông khí hỗ trợ.
32